Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN

THÀNH PHỐ BIÊN HÒA TỈNH ĐỒNG NAI

Bản án số: 63/2022/HNGĐ-ST Ngày: 28-3-2022

V/v: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Phú

Các Hội thẩm nhân dân:

Bà Trần Thị Hồng Ngọc Bà Huỳnh Thị Kim Kiên.

  • Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Thanh Tâm – Thư ký Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Kiên - Kiểm sát viên.

    Ngày 28 tháng 3 năm 2022 tại Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý: 43/2022/TLST – HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2022/QĐXX-ST ngày 08 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

  • Nguyên đơn: Ông Lê Ngọc Q, sinh năm 1977.

    Hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã T, huyện Th, tỉnh Thanh Hóa.

    Địa chỉ tạm trú: tổ 17C, khu phố B, phường H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

  • Bị đơn: Bà Đặng Thị Ch, sinh năm 1975.

    Hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã T, huyện Th, tỉnh Thanh Hóa.

    Địa chỉ tạm trú: tổ 17C, khu phố B, phường H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

    (Các đương sự có mặt)

    NỘI DUNG VỤ ÁN:

    Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hoà giải và tại phiên toà nguyên đơn ông Lê Ngọc Q trình bày:

    Ông và bà Đặng Thị Ch tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn năm 2000 và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện Th, tỉnh Thanh Hóa cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 01, ngày 10/01/2000.

    Trong quá trình sống chung, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm, tính tình không hợp, thường xuyên gây gổ, đánh nhau. Vợ chồng đã nhiều lần ngồi lại giải quyết mâu thuẫn nhằm hàn gắn, gìn giữ hạnh phúc nhưng không được. Thời gian gần đây bà Ch còn có nhiều hành vi xâm hại đến sức khoẻ, tinh thần và uy tín, danh dự của ông như: đổ nước mắm vào thùng hàng mỹ phẩm ông kinh doanh, dùng dao chém vào chân cầu thang, đập phá va li của mẹ chồng, viết thông tin nhằm bôi nhọ uy tín, danh dự của ông lên cầu thang,

    …Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên ông xin ly hôn với bà Ch để trả tự do cho nhau.

    Ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

  • Về quan hệ hôn nhân: Ông xin ly hôn với bà Đặng Thị Ch;

  • Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Lê Thị Huyền Tr, sinh năm 1999 và cháu Lê Phương A, sinh năm 2016. Cháu Lê Thị Huyền Tr đã trưởng thành, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ly hôn, ông đồng ý giao cháu Lê Phương A cho bà Ch trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; ông cấp dưỡng nuôi cháu Lê Phương A số tiền 1.000.000 đồng/tháng.

  • Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

  • Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

    Tại bản tự khai đề ngày 28/02/2022, biên bản hoà giải và tại phiên toà bị đơn bà Đặng Thị Ch trình bày: Bà và ông Q tự nguyện chung sống vào năm 2000, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện Th, tỉnh Thanh Hóa cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 01, ngày 10/01/2000. Vợ chồng chung sống thời gian đầu hạnh phúc, khoảng 3-4 năm nay bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính ông Q gia trưởng, hay bắt bẻ vợ con, vì quá tức giận nên bà mới có các hành vi không kiểm soát như: đổ nước mắm vào thùng hàng mỹ phẩm, dùng dao chém vào chân cầu thang, đập phá va li của mẹ chồng,…

    Bà thừa nhận vợ chồng có những mâu thuẫn như ông Q trình bày, tình cảm vợ chồng nhạt phai nhưng bà không đồng ý ly hôn. Lý do bà không đồng ý ly hôn là vì bà mồ côi cha từ nhỏ nên bà muốn con có đầy đủ cha mẹ, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết. Bà sẽ sửa đổi tính tình để vợ chồng hàn gắn, đoàn tụ vì con.

  • Về con chung: bà và ông Q có 02 con chung tên Lê Thị Huyền Tr, sinh năm 1999 và Lê Phương A, sinh năm 2016. Cháu Lê Thị Huyền Tr đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp ly hôn, ông Q đề nghị giao cháu Lê Phương A cho bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, ông Q cấp dưỡng nuôi cháu Phương A số tiền 1.000.000 đồng/tháng, bà đồng ý.

  • Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải

quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài các chứng cứ các đương sự đã cung cấp từ khi thụ lý đến tại phiên

tòa hôm nay, nguyên đơn, bị đơn không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án: đã thực hiện đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định quan hệ pháp luật, tư cách của đương sự và thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật.

+ Về việc giải quyết vụ án: Từ các tài liệu chứng cứ được thu thập có tại hồ sơ, ý kiến trình bày của các đương sự tại phiên tòa cho thấy hôn nhân giữa vợ chồng ông Q, bà Ch đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, có đủ căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Q đối với bà Ch. Về con chung: cháu Lê Thị Huyền Tr đã trưởng thành nên không xem xét, giải quyết, giao cháu Lê Phương A cho bà Đặng Thị Ch trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của ông Q về việc cấp dưỡng nuôi con số tiền 1.000.000 đồng/tháng. Về tài sản chung: các đương sự thống nhất tự thoả thuận không yêu cầu giải quyết nên không xem xét, giải quyết. Về nợ chung: các đương sự khai không có nên không xem xét, giải quyết. Về án phí: ông Q phải chịu án phí sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

  1. Về tư cách tố tụng và quan hệ tranh chấp:

    Ông Lê Ngọc Q khởi kiện yêu cầu ly hôn bà Đặng Thị Ch. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định ông Q là nguyên đơn, bà Ch là bị đơn. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con”.

  2. Về thẩm quyền giải quyết: Bà Đặng Thị Ch có hộ khẩu thường trú tại Thôn 2, xã T, huyện Th, tỉnh Thanh Hóa hiện đang cư trú tại phường Hoá An, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ vào khoản 01 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự xác định yêu cầu khởi kiện của ông Q thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

  3. Về nội dung tranh chấp:

    [3.1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Ngọc Q và bà Đặng Thị Ch chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện Th, tỉnh Thanh Hóa cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 01, ngày 10/01/2000. Theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 xác định hôn nhân của ông Q và bà Ch là hợp pháp.

    Bà Ch và ông Q đều thừa nhận quá trình chung sống hai bên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau, đánh nhau. Ông Q đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Ch do mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn đoàn tụ. Bà Ch trình bày tình cảm vợ chồng đã phai nhạt nhưng vì con nên bà không muốn ly hôn, bà sẽ thay đổi bản thân để vợ chồng tiếp tục chung sống tuy nhiên ý kiến của bà Ch không được ông Q chấp nhận.

    Theo biên bản xác minh mâu thuẫn tại địa phương ngày 28/02/2022, nơi ông Q và bà Ch sinh sống xác định: “ông Q, bà Ch quá trình chung sống không hạnh phúc, thường xuyên cãi vã, đánh nhau, khu phố và địa phương đều biết mâu thuẫn của vợ chồng ông Q và bà Ch. Vào ngày 01/01/2022, ông Q và bà Ch có xảy ra cãi vã, đánh nhau, ông Q đóng cửa không cho bà Ch vào nhà do trước đó bà Ch có dùng búa đập cầu thang, lấy nước mắm đổ ra nhà. Sau đó bà Ch dùng búa đập phá cửa sắt nên ông Q có nhờ hàng xóm xung quanh báo khu phố. Lúc đó

    ông Trương Văn Qu – đại diện tổ dân phố đang trực chốt tại Văn phòng khu phố B, phường H có đến can ngăn và đề nghị hai bên hoà giải. Sau đó ông Trương Văn Qu có đề nghị viết bản cam kết để hai bên hoà giải, không đánh nhau nữa và ông Q, bà Ch đều ký tên vào bản cam kết trên. Những lần trước đó có cãi vã, đánh nhau, hai bên có báo khu phố và khu phố có động viên, hoà giải nhưng vợ chồng ông bà vẫn thường xuyên cãi vã, đánh nhau”.

    Hội đồng xét xử xét thấy, từ trình bày của ông Q, bà Ch và kết quả xác minh tại địa phương cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng ông Q bà Ch là có thật, đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, áp dụng quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Lê Ngọc Q đối với bà Đặng Thị Ch.

    [3.2] Về con chung: Quá trình chung sống ông Q và bà Ch có 02 con chung là cháu Lê Thị Huyền Tr, sinh năm 1999 và cháu Lê Phương A, sinh năm 2016. Cháu Lê Thị Huyền Tr đã trưởng thành, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết. Ly hôn, ông Q đề nghị giao cháu Lê Phương A cho bà Ch trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng; bà Đặng Thị Ch đồng ý với yêu cầu của ông Q, vì vậy giao cháu Lê Phương A cho bà Đặng Thị Ch trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng.

    Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Lê Ngọc Q tự nguyện cấp dưỡng nuôi cháu Lê Phương A số tiền 1.000.000đồng/tháng, bà Ch đồng ý với mức cấp dưỡng này. Xét thấy, đây là sự tự nguyện của ông Q, đảm bảo cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển của con nên ghi nhận.

    [3.3] Về tài sản chung: Ông Q và bà Ch tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

    [3.4] Về nợ chung: Ông Q và bà Ch khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

  4. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

  5. Về án phí: Nguyên đơn ông Lê Ngọc Q phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con không có giá ngạch theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 1 Điều 28, 35, 39, 68, Khoản 4 Điều 147, 220, 266 và Điều , 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 58, 71, 81, 82, 83, 84, 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

  1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Ngọc Q đối với bà Đặng Thị Ch.

    • Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Ngọc Q được ly hôn bà Đặng Thị Ch.

    • Về con chung: ông Q và bà Ch có 02 con chung là cháu Lê Thị Huyền Tr, sinh năm 1999 và cháu Lê Phương A, sinh năm 2016. Cháu Lê Thị Huyền Tr, sinh năm 1999 đã trưởng thành và có khả năng lao động, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết. Giao con chung là cháu Lê Phương A, sinh năm 2016 cho bà Đặng Thị Ch trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Ông Lê Ngọc Q có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Lê Phương A mỗi tháng

      1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Lê Phương A đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

      Ông Q không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp cần thiết, một trong các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

      Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thanh toán số tiền trên, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải thanh toán cho người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

    • Về tài sản chung: Ông Q, bà Ch tự thoả thuận, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

    • Về nợ chung: Ông Q, bà Ch khai không có nên không đặt ra xem xét.

  2. Về án phí:

    Ông Lê Ngọc Q phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con, khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông Q đã nộp 300.000 đồng (ba

    trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000912 ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, ông Q phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí.

    Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

  3. Ông Lê Ngọc Q, bà Đặng Thị Ch được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

  • Các đương sự;

  • Viện kiểm sát cùng cấp;

  • Ủy ban nhân dân nơi cấp giấy ĐKKH;

  • Chi cục THADS thành phố Biên Hòa;

  • Lưu hồ sơ vụ án.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ

Nguyễn Thị Phú

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Các Hội thẩm nhân dân

Thẩm phán

Nơi nhận:

  • Các đương sự;

  • Viện kiểm sát cùng cấp;

  • Ủy ban nhân dân nơi cấp giấy ĐKKH;

  • Chi cục THADS thành phố Biên Hòa;

  • Lưu hồ sơ vụ án.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ

Nguyễn Thị Phú

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 63/2022/HNGĐ-ST ngày 28/03/2022 của TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Số bản án: 63/2022/HNGĐ-ST
  • Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 28/03/2022
  • Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
  • Tòa án xét xử: TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Ông Lê Ngọc Q xin ly hôn bà Đặng Thị C
Tải về bản án