Bản án số 57/2019/HNGĐ-ST của TAND TP. Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Số bản án: 57/2019/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 24/12/2019
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND TP. Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Anh Nguyễn Quang B và chị Đoàn Thị M đăng ký kết hôn ngày 21/10/1998 tại Ủy ban nhân dân xã Tứ Dân, huyện Châu Giang (nay là huyện Khoái Châu), tỉnh Hưng Yên trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống với tại tổ 36B, khu 10, phường Quang Trung, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, cãi vã. Vợ chồng đã sống ly thân được khoảng 04 năm, không còn quan tâm đến nhau nữa. Anh B về quê ở tại thôn Phương Trù, xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên sinh sống. Mặc dù hai bên đã tự khuyên giải nhiều lần nhưng không thành.
Về con chung Anh B và chị M có 02 con chung là: Nguyễn Hải T, sinh ngày 03/12/1999 (đã thành niên) và Nguyễn Quang V, sinh ngày 17/10/2006 đang ở cùng anh B.
Quan điểm của anh B: Về quan hệ hôn nhân: Cuộc sống vợ chồng tôi rất nặng nề, căng thẳng và không có tiếng nói chung. Đã một lần anh gửi đơn xin ly hôn tới Tòa án, sau đó rút lại để vợ chồng đoàn tụ nhưng không thành. Vì vậy, anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị M. Về con chung: Anh yêu cầu Toà án giao con chung Nguyễn Quang V cho anh trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi. Anh không yêu cầu chị M phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Anh chị tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quan điểm của chị M: Nội dung trình bày của anh B về quá trình tìm hiểu và kết hôn là đúng. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2015, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, anh B đã tự ý mang theo hai con về quê tại thôn Phương Trù, xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên sinh sống. Hiện tại, chị vẫn còn tình cảm với anh B, nên chị không đồng ý ly hôn với anh B. Trường hợp ly hôn, chị muốn nuôi con chung và không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Anh chị tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 57/2019/HNGĐ-ST của TAND TP. Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Số bản án: 57/2019/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 24/12/2019
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND TP. Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Anh Nguyễn Quang B và chị Đoàn Thị M đăng ký kết hôn ngày 21/10/1998 tại Ủy ban nhân dân xã Tứ Dân, huyện Châu Giang (nay là huyện Khoái Châu), tỉnh Hưng Yên trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống với tại tổ 36B, khu 10, phường Quang Trung, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, cãi vã. Vợ chồng đã sống ly thân được khoảng 04 năm, không còn quan tâm đến nhau nữa. Anh B về quê ở tại thôn Phương Trù, xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên sinh sống. Mặc dù hai bên đã tự khuyên giải nhiều lần nhưng không thành.
Về con chung Anh B và chị M có 02 con chung là: Nguyễn Hải T, sinh ngày 03/12/1999 (đã thành niên) và Nguyễn Quang V, sinh ngày 17/10/2006 đang ở cùng anh B.
Quan điểm của anh B: Về quan hệ hôn nhân: Cuộc sống vợ chồng tôi rất nặng nề, căng thẳng và không có tiếng nói chung. Đã một lần anh gửi đơn xin ly hôn tới Tòa án, sau đó rút lại để vợ chồng đoàn tụ nhưng không thành. Vì vậy, anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị M. Về con chung: Anh yêu cầu Toà án giao con chung Nguyễn Quang V cho anh trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi. Anh không yêu cầu chị M phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Anh chị tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quan điểm của chị M: Nội dung trình bày của anh B về quá trình tìm hiểu và kết hôn là đúng. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2015, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, anh B đã tự ý mang theo hai con về quê tại thôn Phương Trù, xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên sinh sống. Hiện tại, chị vẫn còn tình cảm với anh B, nên chị không đồng ý ly hôn với anh B. Trường hợp ly hôn, chị muốn nuôi con chung và không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Anh chị tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.