Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIÊT NAM

HUYÊN EA KAR Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc TỈNH ÐẮK LẮK

Bản án số: 56/2021/HSST. Ngày: 16/11/2021.

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIÊT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYÊN EA KAR, TỈNH ÐẮK LẮK

Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

  • Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Nhã Phương.

  • Các hội thẩm nhân dân:

  1. Bà Nguyễn Thị Tuyết

  2. Ông Lê Khắc Dũng

Thư ký phiên tòa: Ông Y Kăn Niê – Thư ký Tòa án.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện E tham gia phiên tòa: Bà Giản Thị Chung - Chức vụ: Kiểm sát viên.

Ngày 16/11/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Tòa án nhân dân huyện Ea Kar mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2021/HSST, ngày 29 tháng 10 năm 2021; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 56/2021/HSST - QĐ, ngày 02 tháng 11 năm 2021, đối với bị cáo:

* Hq và tên: Huỳnh Văn Ð. Sinh ngày: 20/7/1991. Tại: huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Buôn M'ar, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Tự do; con ông: Huỳnh Văn N (đã chết) và bà Hồ Thị Kim Ch, sinh năm: 1970; bị cáo có vợ: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1993 (đã ly hôn); bị cáo có 01 con sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân Thân: Ngày 11/01/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian chấp hành là 24 tháng; ngày 25/6/2017, chấp hành xong quyết định này và tính đến ngày 30/8/2021 đã hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/9/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện E. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

* Người làm chứng:

1/. Ông Đoàn Ngọc M, sinh năm 1993. Địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn K, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

2/. Bà H W Niê, sinh năm 1997. Địa chỉ: Buôn Ea K'druôl, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

3/. Bà Trịnh Thị Thảo V, sinh năm 2002. Địa chỉ: Thôn 01, xã A, huyện P, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

4/. Ông Trần Ngọc H, sinh năm 1982. Địa chỉ: Tổ dân phố 2A, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Văn Đ là đối tượng nghiện ma túy. Ngày 30/8/2021, Đ đón xe Taxi từ huyện E lên khu vực Km 3 thành phố B mua 01 gói ma túy với giá 3.000.000 đồng của 01 người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) để về sử dụng. Sau khi mua ma túy, Đ mang về huyện E sử dụng 03 lần, số còn lại chia làm 02 gói bọc trong gói nhựa trắng, hơ lửa dán kín miệng rồi cất trong túi quần để khi nào cần thì lấy ra sử dụng. Đến khoảng 20 giờ ngày 12/9/2021, Đ đến nhà nghỉ Hoa Lư thuộc Tổ dân phố 2A, thị trấn E, huyện E thuê phòng, sau đó khóa cửa phòng rồi cầm chìa khóa đi chơi. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, Đ mượn xe mô tô không rõ biển số của bạn đến quán nhậu 23h ở đường Ngô Gia Tự, thị trấn E, huyện E để chở bạn gái là Trịnh Thị Thảo V về, thì gặp Đoàn Ngọc M và H W Niê. Thấy H W Niê đang say rượu nên Đ bảo M chở H W Niê đến nhà nghỉ Hoa Lư để cho H W nghỉ; nói xong, Đ chở V, M chở H W Niê đến phòng số 305 nhà nghỉ Hoa Lư. Đến 00 giờ 30 phút ngày 13/9/2021, khi Đ đang ở trong phòng 305 thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện E phát hiện, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; thu giữ trong túi quần bên phải mà Đ đang mặc trên người 02 gói nhựa màu trắng, bên trong đựng chất rắn dạng tinh thể trong suốt (Đ khai là ma túy đá; sau khi thu giữ, tang vật được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật) và trên bàn uống nước 01 chai nước suối có đục 02 lỗ, 01 lỗ cắm ống thuỷ tinh (cóng), 01 lỗ cắm ống hút bằng nhựa màu tím (đã qua sử dụng).

Kết quả thử ma tuý vào ngày 13/9/2021, xác định Huỳnh Văn Đ dương tính với ma túy (BL 25-27; 31-34; 35-52; 72-75).

Vật chứng thu giữ:

  • 02 gói nhựa trắng, bên trong đựng chất rắn dạng tinh thể trong suốt phát hiện thu giữ trong túi quần bên phải do Huỳnh Văn Đ đang mặc trên người.

  • 01 chai nước suối bằng nhựa trắng, trên nắp chai đục 02 lỗ, 01 lỗ cắm ống thủy tinh (cóng), 01 lỗ cắm ống hút bằng nhựa màu tím, phát hiện thu giữ trên bàn uống nước trong phòng 305 nhà nghỉ Hoa Lư.

    Tại Bản kết luận giám dịnh số 969/QĐMT-PC09 ngày 21/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể trong suốt bên

    trong 02 gói nhựa màu trắng được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng: 1,1068gam, loại: Ketamine; mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 1,0499 gam.

    Tại bản cáo trạng số: 58/CT-VKS, ngày 28/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện E đã truy tố: Huỳnh Văn Đ, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

    Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố.

    Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện E giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo: Huỳnh Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chấtĐề nghị Hội đồng xét xử :

    + Áp dụng điểm g Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Ðiều 51 BLHS. Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn Đ từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

    Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

  • Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 1,0499gam ma túy, loại Ketamine là mẫu vật còn lại sau giám định và 01 chai nước suối bằng nhựa trắng, trên nắp chai đục 02 lỗ, 01 lỗ cắm ống thủy tinh (cóng), 01 lỗ cắm ống hút bằng nhựa màu tím.

Bị cáo Huỳnh Văn Đ không tranh luận với quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện E.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Huỳnh Văn Đ vào ngày 30/8/2021, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng chưa làm rõ được nhân thân, lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý.

Đối với Trịnh Thị Thảo V, Đoàn Ngọc M và H W Niê đi cùng Huỳnh Văn Đ đến nhà nghỉ Hoa Lư để nghỉ; cả ba không sử dụng ma túy và không biết Đ tàng trữ ma túy, nên không có căn cứ xử lý.

Đối với ông Trần Ngọc H chủ nhà nghỉ Hoa Lư, khi Đ thuê phòng thì ông H không biết Đ tàng trữ ma túy nên không có căn cứ xử lý.

Lời nói sau cùng: Bị cáo tỏ thái độ ăn năn và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ cũng như ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ÐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

  1. Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định

    của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật.

  2. Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Văn Đ đã khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có lưu trong hồ sơ vụ án, là có đủ cơ sở kết luận: Do nghiện ma túy nên vào ngày 30/8/2021 bị cáo đã có hành vi tàng trữ 1,1068gam ma túy, loại: Ketamine nhằm để sử dụng.

    Tại Bản kết luận giám dịnh số 969/QĐMT-PC09 ngày 21/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể trong suốt bên trong 02 gói nhựa màu trắng được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng: 1,1068gam, loại: Ketamine. Do vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk truy tố là có cơ sở, đúng người, đúng pháp luật, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

    Tại Khoản 1 Ðiều 249 của Bộ luật Hình sự quy định:

    1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

    ……………

    g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam”;

  3. Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra không những đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các loại dược, chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được rằng các loại dược, chất ma túy đều thuộc sự quản lý độc quyền của Nhà nước, thông qua các cơ quan chức năng có thẩm quyền và phải tuân theo những trình tự, thủ tục nghiêm ngặt; mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đều bị trừng trị nghiêm khắc. Người nghiện ma túy là tự tàn phá sức khỏe, làm tổn hại giống nòi và còn là nguyên nhân làm lây truyền các căn bệnh xã hội. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật nên vào ngày 30/8/2021 bị cáo đã có hành vi tàng trữ 1,1068gam ma túy, loại: Ketamine nhằm để sử dụng. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với những hành vi mà bị cáo gây ra, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục đối với bị cáo và cũng phòng ngừa chung cho xã hội.

  4. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không

  5. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

    Do đó, xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với tính chất mức độ hành vi do bị cáo gây ra nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

    Đối với đối tượng bán ma túy cho Huỳnh Văn Đ vào ngày 30/8/2021, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng chưa làm rõ được nhân thân, lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý.

    Đối với Trịnh Thị Thảo V, Đoàn Ngọc M và H W Niê đi cùng Huỳnh Văn Đ đến nhà nghỉ Hoa Lư để nghỉ, cả ba không sử dụng ma túy và không biết Đông tàng trữ ma túy, nên không có căn cứ xử lý.

    Đối với ông Trần Ngọc H chủ nhà nghỉ Hoa Lư, khi Đ thuê phòng thì ông H không biết Đ tàng trữ ma túy nên nên không có căn cứ xử lý.

  6. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a Khoản 2 Điều 106 BLTTHS

    Tịch thu tiêu hủy 1,0499gam ma túy, loại Ketamine là mẫu vật còn lại sau giám định và 01 chai nước suối bằng nhựa trắng, trên nắp chai đục 02 lỗ, 01 lỗ cắm ống thủy tinh (cóng), 01 lỗ cắm ống hút bằng nhựa màu tím (đã qua sử dụng)

  7. Về trách nhiệm dân sự: Không có ai yêu cầu, nên không đặt ra để giải

    quyết.

  8. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí

hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ÐỊNH:

Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Văn Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

  1. Ðiều luật và hình phạt:

    + Áp dụng điểm g Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Ðiều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn Đ 01(một) năm 03 (ba) tháng tù .Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 13/9/2021.

  2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a Khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

    Tịch thu tiêu hủy 1,0499gam ma túy, loại Ketamine là mẫu vật còn lại sau giám định và 01 chai nước suối bằng nhựa trắng, trên nắp chai đục 02 lỗ, 01 lỗ cắm ống thủy tinh (cóng), 01 lỗ cắm ống hút bằng nhựa màu tím.

    Toàn bộ số vật chứng trên hiện nay do Chi cục Thi hành án dân sự huyện E, tỉnh Đắk Lắk đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/11/2021

  3. Trách nhiệm dân sự: Không có ai yêu cầu, nên không đặt ra để giải quyết.

  4. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy

    ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

    Buộc bị cáo Huỳnh Văn Đ phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

  5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận: T/M HỘI ÐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

  • Vụ Giám đốc kiểm tra 1 – TANDTC; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

  • TAND tỉnh Đắk Lắk;

  • VKSND huyện E;

  • Công an huyện E;

  • Sở tư pháp tỉnh Đắk Lắk;

  • Chi cục THADS huyện E;

  • Bị cáo;

  • Lưu VT; hồ sơ vụ án. Trần Thị Nhã Phương

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 56/2021/HSST ngày 16/11/2021 của TAND huyện Ea Kar , tỉnh Đắk Lắk

  • Số bản án: 56/2021/HSST
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 16/11/2021
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND huyện Ea Kar , tỉnh Đắk Lắk
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Huỳnh Văn Đ
Tải về bản án