Bản án số 55/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 của TAND tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Số bản án: 55/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 26/08/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Nguyên đơn là anh Nguyễn Văn D trình bày: Anh chung sống với chị Nguyễn Thị L vào tháng 11/1990 trên cơ sở có sự tự do tìm hiểu, tự nguyện, nhưng không đăng ký kết hôn tại UBND xã SV, huyện TY, tỉnh BG được vì khi đó anh chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi cưới vợ chồng chung sống tại gia đình bố mẹ đẻ của anh. Vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc. Đến năm 2003 chị L đi làm ăn xa, năm 2005 trở về thì có thay đổi, không muốn ở nhà nữa. Do làm ăn khó khăn nên anh cũng đồng ý cho chị L đi làm tiếp. Kể từ đó thì chị L ít liên lạc và thường xuyên lấy cớ gây sự với anh. Cuộc sống khó khăn nhưng một mình anh phải nuôi 2 con ăn học, chị L thỉnh thoảng có gửi chút tiền thông qua gia đình bên ngoại nhưng không giúp được khó khăn về kinh tế cũng như tinh thần. Anh biết chị L vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình nên có hỏi về thông tin địa chỉ, số điện thoạithì không được. Chị L không có trách nhiệm gì với gia đình tôi nữa. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật giải quyết không công nhận quan hệ hôn nhân giữa anh và chị Nguyễn Thị L.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 55/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 của TAND tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Số bản án: 55/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 26/08/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Nguyên đơn là anh Nguyễn Văn D trình bày: Anh chung sống với chị Nguyễn Thị L vào tháng 11/1990 trên cơ sở có sự tự do tìm hiểu, tự nguyện, nhưng không đăng ký kết hôn tại UBND xã SV, huyện TY, tỉnh BG được vì khi đó anh chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi cưới vợ chồng chung sống tại gia đình bố mẹ đẻ của anh. Vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc. Đến năm 2003 chị L đi làm ăn xa, năm 2005 trở về thì có thay đổi, không muốn ở nhà nữa. Do làm ăn khó khăn nên anh cũng đồng ý cho chị L đi làm tiếp. Kể từ đó thì chị L ít liên lạc và thường xuyên lấy cớ gây sự với anh. Cuộc sống khó khăn nhưng một mình anh phải nuôi 2 con ăn học, chị L thỉnh thoảng có gửi chút tiền thông qua gia đình bên ngoại nhưng không giúp được khó khăn về kinh tế cũng như tinh thần. Anh biết chị L vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình nên có hỏi về thông tin địa chỉ, số điện thoạithì không được. Chị L không có trách nhiệm gì với gia đình tôi nữa. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật giải quyết không công nhận quan hệ hôn nhân giữa anh và chị Nguyễn Thị L.