Hệ thống pháp luật
THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 497/2021/HS-PT ngày 13/12/2021 của TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh

  • Số bản án: 497/2021/HS-PT
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Phúc thẩm
  • Ngày ban hành: 13/12/2021
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Vào năm 1998, Ông Cao Văn B sinh năm 1961, cư trú: Khu phố 3, thị trấn D, huyện P1, tỉnh Kiên Giang khai phá thửa đất khoảng 02 ha ở ấp S, xã D1, huyện P1, tỉnh Kiên Giang. Đến năm 2005, Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang ra Quyết định số 877/QĐ-UB, ngày 19/5/2005 thu hồi thửa đất của ông B phục vụ cho việc quy hoạch khu vực tái định cư 202 ha tại ấp S, xã D1 và giao Ủy ban nhân dân huyện P1 quản lý. Khi thu hồi đất, ông B được hỗ trợ bồi thường thiệt hại hoa màu, giải tỏa tổng số tiền 309.867.000 đồng. Sau khi đã nhận xong tiền hỗ trợ bồi thường thì ông B thấy những hộ dân khu vực đất của ông B tái bao chiếm phần đất đã bị thu hồi và sử dụng nên ông B cũng vào khu đất của ông B tiếp tục khai thác, sử dụng. Vào năm 2018, Nguyễn Công T sinh năm 1978, đăng ký thường trú: ấp M2, xã M3, huyện T1, tỉnh Tiền Giang (nay là Khu phố M, thị trấn M1, huyện T1, tỉnh Tiền Giang) thông qua việc kinh doanh mua bán bất động sản nên quen biết với ông Cao Văn B. Trong khoảng thời gian này, ông B đã làm hợp đồng ủy quyền (quản lý, sử dụng, định đoạt) thửa đất ở ấp S, xã D1, huyện P1, tỉnh Kiên Giang cho bị cáo Nguyễn Công T. Ngày 01/4/2018, bị cáo T thỏa thuận ký hợp đồng mua bán thành quả lao động gắn liền với đất (thửa đất có diện tích 6000m2 nằm trong thửa đất ông B ủy quyền cho T quản lý) với ông Mai Xuân V sinh năm: 1957, nơi cư trú: DC 31, Ô 46, khu dân cư V, Khu phố 4, phường A, thị xã T5, tỉnh Bình Dương với giá 12 tỷ đồng Việt Nam. Sau khi ký hợp đồng xong, ông V đã thanh toán cho bị cáo T 3,3 tỷ đồng Việt Nam. Số tiền còn lại, sau 09 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, ông V sẽ thanh toán cho bị cáo T khi T làm xong giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất nói trên cho ông V đứng tên. Khi hết thời hạn theo thỏa thuận, bị cáo T không làm được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giao cho ông V nên ông V đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện P1 tra cứu thông tin về thửa đất trên thì biết được thửa đất trên nằm trong khu vực đất rừng do Ban quản lý rừng phòng hộ P2 quản lý, không được mua bán. Sau đó, ông V nhiều lần yêu cầu bị cáo T trả lại số tiền 3,3, tỷ đồng Việt Nam nhưng T không có khả năng thanh toán và bỏ trốn khỏi nơi cư trú nhằm chiếm đoạt số tiền 3,3 tỷ đồng của ông V.
Tải về bản án