Bản án số 49/2020/DS-PT của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Số bản án: 49/2020/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 28/05/2020
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hậu Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Vào ngày 29/10/2009 ông Nguyễn Văn B1 và bà Trần Thị B có cố cho ông Nguyễn Văn Đ 10 công đất tầm 03m với giá 30 chỉ vàng 24K (loại 9999), cố trong hạn 03 năm và có làm tờ cố đất. Sau đó ông Đ không sử dụng đất mà cho bà B, ông B1 thuê lại với giá 500 kg lúa khô/1.300m2/năm. Khi thuê đất có làm hợp đồng thuê đất chung với hợp đồng cầm cố cùng ngày 29/10/2009. Từ khi thuê đất đến nay thì ông B1, bà B có trả tiền thuê đất cho ông Đ được 7 lần là 25 tấn lúa và 71.000.000 đồng. Những lần trả tiền và lúa thuê đất thì không có chứng cứ gì cũng như không có người làm chứng.
Nay bà B yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Long M giải quyết:
- Bà đồng ý chuộc lại đất với giá 30 chỉ vàng 24K (loại 9999).
- Bà yêu cầu tuyên bố hợp đồng cầm cố và cho thuê quyền sử dụng đất vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định trả lại cho bà B, ông B1 25 tấn lúa đã nhận trong 05 năm (từ năm 2010 đến năm 2014) và số tiền 71.000.000 đồng trong hai năm 2015- 2016 (cụ thể 02 năm tương đương 60.000.000 đồng và 11.000.000 đồng tiền lãi).
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 49/2020/DS-PT của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Số bản án: 49/2020/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 28/05/2020
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hậu Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Vào ngày 29/10/2009 ông Nguyễn Văn B1 và bà Trần Thị B có cố cho ông Nguyễn Văn Đ 10 công đất tầm 03m với giá 30 chỉ vàng 24K (loại 9999), cố trong hạn 03 năm và có làm tờ cố đất. Sau đó ông Đ không sử dụng đất mà cho bà B, ông B1 thuê lại với giá 500 kg lúa khô/1.300m2/năm. Khi thuê đất có làm hợp đồng thuê đất chung với hợp đồng cầm cố cùng ngày 29/10/2009. Từ khi thuê đất đến nay thì ông B1, bà B có trả tiền thuê đất cho ông Đ được 7 lần là 25 tấn lúa và 71.000.000 đồng. Những lần trả tiền và lúa thuê đất thì không có chứng cứ gì cũng như không có người làm chứng.
Nay bà B yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Long M giải quyết:
- Bà đồng ý chuộc lại đất với giá 30 chỉ vàng 24K (loại 9999).
- Bà yêu cầu tuyên bố hợp đồng cầm cố và cho thuê quyền sử dụng đất vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định trả lại cho bà B, ông B1 25 tấn lúa đã nhận trong 05 năm (từ năm 2010 đến năm 2014) và số tiền 71.000.000 đồng trong hai năm 2015- 2016 (cụ thể 02 năm tương đương 60.000.000 đồng và 11.000.000 đồng tiền lãi).