TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN TỈNH THÁI NGUYÊN | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
Bản án số: 485/2021/HS-ST Ngày 27 - 9 - 2021
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Vũ Thị An
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Bà Nguyễn Thị Kim Thu
2. Bà Nguyễn Thị Thúy Mai
Thư ký phiên toà: Bà Vũ Hoàng Yến - Thư ký Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên tham gia phiên toà: Bà Nguyễn Thị Huyền Trang- Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 9 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 482/2021/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 487/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Đức B, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 16/3/1982; Nơi sinh: Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ 11, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Nguyễn Đức M, sinh năm 1955, con bà: Ngô Thị L, sinh năm 1953; Vợ Nguyễn Thị Q, sinh năm 1989; có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2020; Gia đình có 5 anh em, bị cáo là con thứ ba;
Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:
+ Bản án số 27/HSST ngày 17/3/2000 của Tòa án nhân dân thành phố T, xử phạt Nguyễn Đức B 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng, về tội “Cố ý gây thương tích”.
+ Bản án số 152/HSST ngày 23/10/2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, xử phạt Nguyễn Đức B 42 tháng tù, về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp với bản án số 27 ngày 17/3/2000 của Tòa án nhân dân thành phố T. Buộc
Nguyễn Đức B phải chịu hình phạt chung cho 02 bản án là 60 tháng tù. (Chấp hành xong hình phạt tù tháng 05/2006; Chấp hành xong khoản án phí ngày 30/6/2008).
+ Bản án số 106/HSST ngày 14/6/2007 của Tòa án nhân dân thành phố T, xử phạt Nguyễn Đức B 24 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. (Chấp hành xong khoản án phí ngày 19/6/2008; chấp hành xong hình phạt tù tháng 3/2009).
+ Bản án số 225/HSST ngày 27/6/2011 của Tòa án nhân dân thành phố T, xử phạt Nguyễn Đức B 08 năm tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. (Chấp hành xong khoản án phí ngày 13/9/2011; Chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/2/2018).
+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 78 ngày 22/4/2001 của Công an phường P, thành phố T, xử phạt Nguyễn Đức B 50.000đ về hành vi “chiếm giữ trái phép tài sản của người khác” Nộp phạt ngày 24/5/2001.
+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 81 ngày 15/5/2001 của Công an phường P, thành phố T, xử phạt cảnh cáo đối với Nguyễn Đức B về hành vi “Trộm cắp vặt”.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/5/2021 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên tòa.
Những người tham gia tố tụng khác:
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1963 – (vắng mặt).
Trú tại: Tổ 11, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên
Người chứng kiến: Ông Hà Minh T – sinh năm 1962
Trú tại: Tổ 4, phường C, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 20 giờ 10 phút, ngày 09/5/2021, tổ công tác của Công an phường H, thành phố T phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố T làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực tổ 08, phường P, thành phố T thì phát hiện 01 người đàn ông đang điều khiển xe mô tô BKS 20B1-
025.06 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người đàn ông khai tên là Nguyễn Đức B.Quá trình kiểm tra phát hiện tại túi quần đùi bên trái phía trước B đang mặc 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng. B khai đó là ma túy Heroine của B mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với
Nguyễn Đức B và niêm phong thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra, còn tạm giữ của B 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade BKS 20B1-026.05.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra phối hợp với Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng trong bì niêm phong A1 thu giữ của B là 0,278 gam. Trích 0,101gam chất bột màu trắng trên niêm phong kí hiệu D gửi giám định, còn lại 0,177gam chất bột màu trắng niêm phong bì kí hiệu D1 để lưu kho.
Kết luận giám định số 849/KL-KTHS ngày 18/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì kí hiệu D gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,278 gam.
Quá trình điều tra, Nguyễn Đức B khai nhận: Khoảng 19 giờ 45 phút, ngày 09/5/2021, B một mình điều khiển xe mô tô BKS 20B1-026.05 từ nhà đến khu vực ngã ba Trạm quá tải thuộc phường L, thành phố T để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi, B gặp và mua của 01 người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy Heroine được gói bằng giấy bạc màu trắng với giá
200.000 đồng. Sau đó, B cất gói ma túy vừa mua được vào túi quần đùi bên trái phía trước B đang mặc rồi điều khiển xe đi về khu vực phường M, thành phố T tìm mua xi lanh về sử dụng số ma túy trên. Khi B đi đến khu vực trước cửa quầy thuốc thuộc tổ 08, phường M thì bị tổ công tác Công an thành phố T phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.
Vật chứng vụ án gồm: 02 bì niêm phong kí hiệu D, D1 bên trong chứa ma túy và bao gói mẫu hoàn lại sau giám định.
Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T chờ xử lý.
01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade BKS: 20B1-02605. Số khung RLHJF1809AY565640, số máy JF27E0589057, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Q quản lý, sử dụng.
Tại bản cáo trạng số 492/CT-VKSTPTN ngày 30/8/2021, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Đức B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăg nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố đối và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:
Về hình phạt: Áp dụngđiểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đức B từ 30 đến 36 tháng tï. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
D1.
- Về vật chứng: Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu D và
-Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Nguyễn Đức B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát.
Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Hồi 20 giờ 10 phút, ngày 09/5/2021, tại tổ 8, phường M, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên, tổ công tác của Công an thành phố T bắt quả tang Nguyễn Đức B đang có hành vi tàng trữ 0,278 gam Heroine để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện và thu giữ vật chứng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Đức B về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển ..., thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”
...
c) Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
[2]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:
Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, được xác định là không có tiền án, tiền sự, nhưng có nhân thân rất xấu, đã bị xét xử nhiều lần và đi giáo dục, cải tạo tập trung nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật, điều đó chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo cất giữ ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán để kiếm lời, mặt khác bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng, không có việc làm, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo
[3]. Vật chứng của vụ án: Đối với 02 phong bì niêm phong kí hiệu D và D1(bên trong có chứa ma túy và vỏ bao gói) là vật chứng của vụ án không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade BKS: 20B1-02605. Số khung RLHJF1809AY565640, số máy JF27E0589057bị cáo sử dụng đi mua ma túy, chiếc xe này là của chị Q vợ bị cáo, ngày 09/5/2021 bị cáo lấy xe đi mua ma túy chị Q không biết. Quá trình điều tra chị Q có đơn xin lại chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP T đã trả chị Q là chủ sở hữu quản lý, sử dụng là phù hợp.
[4] Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
[5]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, hình phạt và các nội dung khác đối với bị cáo là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.
Trong vụ án này, bị cáo khai đã mua ma túy của 01 người đàn ông không quen biết tại khu vực vực ngã ba Trạm quá tải thuộc phường L, thành phố T. Do không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T không có đủ cơ sở để điều tra, làm rõ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾTĐỊNH:
Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự,
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức B phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Nguyễn Đức B 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/5/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
Vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu D và D1.
(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/8/2021 giữa cơ quan Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T).
Án phí: Áp dụngĐiều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Nguyễn Đức B phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.
Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận: -VKSND TPTN;
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
(Đã ký) |
Bản án số 485/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 của TAND TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
- Số bản án: 485/2021/HS-ST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 27/09/2021
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Bị cáo Nguyễn Đức B phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Nguyễn Đức B 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/5/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.