Bản án số 47/2023/HNGĐ-PT ngày 26/10/2023 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Số bản án: 47/2023/HNGĐ-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 26/10/2023
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Ông và bà Nguyễn Thị Thanh B chung sống và đăng ký kết hôn với nhau vào tháng 01 năm 2019 tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện Y, tỉnh Tiền Giang chung sống hạnh phúc khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau về tư tưởng, quản lý tiền bạc. Vợ chồng ông không còn chung sống khoảng tháng 6 năm 2020. Ông Nguyễn Quốc A cho rằng không còn hạnh phúc, không thể kéo dài hôn nhân nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh B. Về con chung: Hôn nhân giữa ông và bà Nguyễn Thị Thanh B có một người con chung có tên là Nguyễn Ngọc Bảo F, sinh ngày 05 tháng 3 năm 2020, hiện con do bà B đang nuôi dưỡng. Ông yêu cầu bà Nguyễn Thị Thanh B được quyền trực tiếp nuôi dưỡng người con chung có tên nêu trên, ông cấp dưỡng cho bà B nuôi con chung, mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng), thời gian bắt đầu cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án giải quyết xong vụ án nhưng tại phiên tòa ông A đồng ý thời gian bắt đầu cấp dưỡng là tháng 12 năm 2020 đến khi người con chung đủ mười tám tuổi. Về tài sản chung: Khi khởi kiện thì ông A không yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng sau đó ông A yêu cầu chia tài sản chung gồm: 30 chỉ vàng 24K; 1,6 chỉ vàng 18K; một đôi bông hột xoàn trị giá 39.000.000đ (ba mươi chín triệu đồng), tổng cộng số tiền là 207.400.000 đồng (hai trăm lẻ bảy triệu bốn trăm nghìn đồng) đến phiên hòa giải ngày 30 tháng 8 năm 2022, ông A đã rút yêu cầu này. Về nợ chung: Ông A xác định ông và bà B nợ ông Nguyễn Hồng D với số tiền là 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng), vay khoảng tháng 5 năm 2019, vay tiền để mướn trồng thanh long. Ông yêu cầu mỗi người trả 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng). Ông giữ nguyên ý kiến của ông về số tiền cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng, về yêu cầu của bà B đối với thửa đất 424, ông xác định nhận chuyển quyền sử dụng đất đối với thửa đất 424 là từ bà Dương Bội Ngọc trước khi kết hôn, ông đã đặt cọc cho bà Nguyễn Thị Thạnh là mẹ ruột của bà Dương Bội Ngọc, với số tiền là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng), có làm biên nhận bằng giấy viết tay hiện ông đang quản lý nên quyền sử dụng đất thửa đất 424 là tài sản riêng của ông, tiền bán thanh long ông đã chi trả chi phí trồng thanh long. Ông đồng ý trả nợ cho ông D.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 47/2023/HNGĐ-PT ngày 26/10/2023 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Số bản án: 47/2023/HNGĐ-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 26/10/2023
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Ông và bà Nguyễn Thị Thanh B chung sống và đăng ký kết hôn với nhau vào tháng 01 năm 2019 tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện Y, tỉnh Tiền Giang chung sống hạnh phúc khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau về tư tưởng, quản lý tiền bạc. Vợ chồng ông không còn chung sống khoảng tháng 6 năm 2020. Ông Nguyễn Quốc A cho rằng không còn hạnh phúc, không thể kéo dài hôn nhân nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh B. Về con chung: Hôn nhân giữa ông và bà Nguyễn Thị Thanh B có một người con chung có tên là Nguyễn Ngọc Bảo F, sinh ngày 05 tháng 3 năm 2020, hiện con do bà B đang nuôi dưỡng. Ông yêu cầu bà Nguyễn Thị Thanh B được quyền trực tiếp nuôi dưỡng người con chung có tên nêu trên, ông cấp dưỡng cho bà B nuôi con chung, mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng), thời gian bắt đầu cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án giải quyết xong vụ án nhưng tại phiên tòa ông A đồng ý thời gian bắt đầu cấp dưỡng là tháng 12 năm 2020 đến khi người con chung đủ mười tám tuổi. Về tài sản chung: Khi khởi kiện thì ông A không yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng sau đó ông A yêu cầu chia tài sản chung gồm: 30 chỉ vàng 24K; 1,6 chỉ vàng 18K; một đôi bông hột xoàn trị giá 39.000.000đ (ba mươi chín triệu đồng), tổng cộng số tiền là 207.400.000 đồng (hai trăm lẻ bảy triệu bốn trăm nghìn đồng) đến phiên hòa giải ngày 30 tháng 8 năm 2022, ông A đã rút yêu cầu này. Về nợ chung: Ông A xác định ông và bà B nợ ông Nguyễn Hồng D với số tiền là 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng), vay khoảng tháng 5 năm 2019, vay tiền để mướn trồng thanh long. Ông yêu cầu mỗi người trả 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng). Ông giữ nguyên ý kiến của ông về số tiền cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng, về yêu cầu của bà B đối với thửa đất 424, ông xác định nhận chuyển quyền sử dụng đất đối với thửa đất 424 là từ bà Dương Bội Ngọc trước khi kết hôn, ông đã đặt cọc cho bà Nguyễn Thị Thạnh là mẹ ruột của bà Dương Bội Ngọc, với số tiền là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng), có làm biên nhận bằng giấy viết tay hiện ông đang quản lý nên quyền sử dụng đất thửa đất 424 là tài sản riêng của ông, tiền bán thanh long ông đã chi trả chi phí trồng thanh long. Ông đồng ý trả nợ cho ông D.