Hệ thống pháp luật
THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 47/2020/HNGĐ-ST của TAND TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Số bản án: 47/2020/HNGĐ-ST
  • Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 07/07/2020
  • Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
  • Tòa án xét xử: TAND TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Về quan hệ hôn nhân: Ông Đinh Văn Th và bà Nguyễn Thị T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2009, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, có đăng ký kết hôn và được UBND phường An Bình cấp giấy chứng nhận kết hôn vào 3 ngày 19/7/2010, nên đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Xét yêu cầu xin ly hôn của ông Th , Hội đồng xét xử xét thấy: Ông Th và bà T không còn yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau để xây dựng mái ấm gia đình bền vững và hạnh phúc. Cụ thể, tại phiên tòa ông Th trình bày do từ năm 2012 bà T tự ý bỏ về cha mẹ ruột sinh sống, không sống chung với ông nữa dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng xấu đi, hiện nay tình cảm vợ chồng không còn nữa, hai người đã sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay vẫn không liên lạc được. Tại Quyết định số 03/2018/QĐST-DS ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá đã tuyên bố bà Nguyễn Thị T bị mất tích. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa ông Th và bà T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong nghị án Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Th được ly hôn với bà T . Về quan hệ con chung: Ông Th xác nhận có 01 người con chung tên Đinh Gia Bảo, sinh năm 2010. Ông Th yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Bảo. Xét thấy, yêu cầu của ông Th hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của cháu Bảo được ghi nhận tại biên bản lấy ý kiến vào ngày 13/2/2020 cháu Bảo có nguyện vọng sống chung với ba. Do đó, trong nghị án Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Th về việc nuôi con là hoàn toàn phù hợp. Ông Th không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về quan hệ tài sản chung: Ông Th xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về quan hệ nợ chung: Ông Th xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị T , căn cứ khoản 2 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về nghĩa vụ chứng minh của đương sự “Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó”. Nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, bà T không có sự phản đối nào đối với yêu cầu của nguyên đơn cũng như chứng cứ do nguyên đơn cung cấp. Do đó, nếu bà T có tranh chấp về con chung, tài sản chung và nợ chung của vợ chồng thì bà T có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông Đinh Văn Th phải chịu là 300.000 đồng
Tải về bản án