Bản án số 46/2020/HNGĐ-ST của TAND TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Số bản án: 46/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 30/06/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Về quan hệ hôn nhân: Bà Bùi Thị T và ông Nguyễn Thanh T1 tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1998, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, có đăng kY kết hôn và được UBND phường Rạch Sỏi cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 02/4/1998, nên đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Xét yêu cầu xin ly hôn của bà T , Hội đồng xét xử xét thấy: Bà T và ôngT1 không còn yêu thương, quY trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau để xây dựng mái ấm gia đình bền vững và hạnh phúc. Cụ thể, tại phiên tòa bà T trình bày bắt đầu từ năm 2013 cho đến nay ôngT1 không có trách nhiệm với vợ con cả về kinh tế cũng như chăm sóc con cái, thường xuyên ăn nhậu tới khuya mới về, khi về còn kiếm chuyện gây gỗ, hành hung với bà trước mặt con cái, đã nhiều lần đến nơi bà buôn bán quậy phá, chửi bới bà. Ngoài ra, ôngT1 còn có người phụ nữ khác bên ngoài dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng xấu đi, hiện nay tình cảm vợ chồng không còn nữa, hai người đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay vẫn không hàn gắn được. Tại phiên tòa, bà T cương quyết yêu cầu được ly hôn với ôngT1, đối với ôngT1 không đồng Y ly hôn với bà T vì còn thương vợ thương con nhưng ôngT1 không đưa ra được giải pháp nào để hàn gắn. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa bà T và ôngT1 đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong nghị án Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T được ly hôn với ôngT1. Về quan hệ con chung: Bà T và ôngT1 xác nhận có 04 người con chung tên Nguyễn Thanh T, sinh năm 1999 (Đã trưởng thành); Nguyễn Thanh K, sinh năm 2002 (Đã trưởng thành); Nguyễn Thị Kiều M, sinh năm 2012 và Nguyễn Ngọc Như Y, sinh năm 2016. Bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu M và cháu Y. Tại biên bản ghi nhận Y kiến vào ngày 11/5/2020 cháu M có nguyện vọng sống chung với mẹ - Bùi Thị T . Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con của bà T là hoàn toàn phù hợp. Bà T không yêu cầu ôngT1 cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về quan hệ tài sản chung: Bà T và ôngT1 xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về quan hệ nợ chung: Bà T và ôngT1 xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4
Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Bùi Thị T phải chịu 300.000 đồng.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 46/2020/HNGĐ-ST của TAND TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Số bản án: 46/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 30/06/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Về quan hệ hôn nhân: Bà Bùi Thị T và ông Nguyễn Thanh T1 tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1998, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, có đăng kY kết hôn và được UBND phường Rạch Sỏi cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 02/4/1998, nên đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Xét yêu cầu xin ly hôn của bà T , Hội đồng xét xử xét thấy: Bà T và ôngT1 không còn yêu thương, quY trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau để xây dựng mái ấm gia đình bền vững và hạnh phúc. Cụ thể, tại phiên tòa bà T trình bày bắt đầu từ năm 2013 cho đến nay ôngT1 không có trách nhiệm với vợ con cả về kinh tế cũng như chăm sóc con cái, thường xuyên ăn nhậu tới khuya mới về, khi về còn kiếm chuyện gây gỗ, hành hung với bà trước mặt con cái, đã nhiều lần đến nơi bà buôn bán quậy phá, chửi bới bà. Ngoài ra, ôngT1 còn có người phụ nữ khác bên ngoài dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng xấu đi, hiện nay tình cảm vợ chồng không còn nữa, hai người đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay vẫn không hàn gắn được. Tại phiên tòa, bà T cương quyết yêu cầu được ly hôn với ôngT1, đối với ôngT1 không đồng Y ly hôn với bà T vì còn thương vợ thương con nhưng ôngT1 không đưa ra được giải pháp nào để hàn gắn. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa bà T và ôngT1 đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong nghị án Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T được ly hôn với ôngT1. Về quan hệ con chung: Bà T và ôngT1 xác nhận có 04 người con chung tên Nguyễn Thanh T, sinh năm 1999 (Đã trưởng thành); Nguyễn Thanh K, sinh năm 2002 (Đã trưởng thành); Nguyễn Thị Kiều M, sinh năm 2012 và Nguyễn Ngọc Như Y, sinh năm 2016. Bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu M và cháu Y. Tại biên bản ghi nhận Y kiến vào ngày 11/5/2020 cháu M có nguyện vọng sống chung với mẹ - Bùi Thị T . Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con của bà T là hoàn toàn phù hợp. Bà T không yêu cầu ôngT1 cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về quan hệ tài sản chung: Bà T và ôngT1 xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về quan hệ nợ chung: Bà T và ôngT1 xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4
Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Bùi Thị T phải chịu 300.000 đồng.