Bản án số 46/2020/DS-PT ngày 15/12/2020 của TAND tỉnh Cao Bằng về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số bản án: 46/2020/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 15/12/2020
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cao Bằng
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn Mông Văn A trình bày: Gia đình ông có thửa đất rừng số 659, tờ bản đồ số 1, diện tích 41.992,0 m², địa chỉ: Trà Lâu, xã L, huyện Thạch An, đã đuợc UBND huyện Thạch An cấp GCNQSD đất số: AI 121150, cấp ngày 14/4/2006, Đất rừng phòng hộ, GCNQSD đất đứng tên ông Mông Văn A và bà Vương Thị C, địa chỉ: Thôn M (nay là Xóm K ), xã L, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. Nguồn gốc thửa đất là đất rừng đuợc Nhà nước giao quản lý từ năm 1994, sau khi giao đất anh trai ông A là Mông Văn N được trồng một cây Mai để xác định ranh giới, cây Mai trồng đúng vị trí khe ranh giới mà hiện nay đang tranh chấp. Đến năm 2004 rà soát lại để cấp GCNQSD đất năm 2006 tại thôn, xã có triển khai và đến thực địa để nhận đất nhưng không phải đến thực địa thửa đất mà nhìn từ đồi bên này chỉ sang bên kia đồi, gia đình ông A được giao đất tại thửa đất có tên gọi là Trà Lẩu, xã L thửa đất số 659, tờ bản đồ sổ 1, diện tích 41.992,0 m² đã được UBND huyện Thạch An cấp GCNQSD đất số: AI 121150, cấp ngày 14/4/2006 đứng tên hộ ông Mông Văn A và bà Vương Thị C, địa chỉ Thôn M (Nay là Xóm K ), xã L, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. Vào số cấp GCNQSD đất: H.00749. Đến năm 2018 xảy ra tranh chấp nguyên nhân do ông B tranh chấp đất rừng phía ngoài sau nhà chúng tôi (A), ông A có đơn yêu cầu thôn và UBND xã L giải quyết, khi giải quyết có địa chính xã, cán bộ Kiếm lâm và ban Mặt trận thôn đến thực địa giải quyết thì mới xác định được vị trí ranh giới của thửa đất số 659 của gia đình tôi (A) với thửa đất số 705 của ông B. Khi cán bộ Kiểm Lâm dùng máy xác định ranh giới giữa hai thửa đất tôi (A) mới biết được ranh giới thửa đất số 659 và thửa đất sổ 705 là tại khe gốc Mai, chứ không phải khe Cốc Phường như ông B đã chỉ cho tôi (A), khi nhận đất tôi (A) không biết xem bản đồ và ông B nói là đất của gia đình tôi chỉ đến khe ngoài Cốc Phường chứ không phải đến khe gốc Mai. Tại vị trí đất tranh chấp năm 2009 ông B đã trồng cây keo lẫn sang đất của gia đình ông A. Đến năm 2019 ông B khai thác cây keo và trồng lại cây keo khi đó đất đang tranh chấp chưa được giải quyết.
Khi giải quyết tranh chấp ranh giới ông B khai về ranh giới giữa hai thửa đất 659 của tôi (A) và thửa đất 705 của ông B, ông B khai đã thỏa thuận với tôi (A) về ranh giới thửa đất là tại khe ngắn Cốc Phường chứ không phải tại khe gốc cây Mai, về việc này tôi (A) khẳng định không có, khi cấp GCNQSD đất ông B nói đất tôi đến khe cốc Phường do tôi (A) không biết xem bản đồ nên tin ông B.
Nay tôi (A) yêu cầu được quyền quản lý sử dụng toàn bộ diện tích rừng đang tranh chấp với ông B và yêu cầu ông B khai thác toàn bộ số cây Keo, Mỡ, Quế và chuyến toàn bộ số cây Keo mới trồng sang vị trí đất khác để trả lại đất cho gia đình tôi (A) quản lý, sử dụng trồng rừng. Riêng phần đất Nông nghiệp của anh Mông Văn Z tôi không tranh chấp mà để anh Z quản lý sử dụng. Ngoài ra tôi (A) không trình bày và yêu cầu gì thêm.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 46/2020/DS-PT ngày 15/12/2020 của TAND tỉnh Cao Bằng về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số bản án: 46/2020/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 15/12/2020
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cao Bằng
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn Mông Văn A trình bày: Gia đình ông có thửa đất rừng số 659, tờ bản đồ số 1, diện tích 41.992,0 m², địa chỉ: Trà Lâu, xã L, huyện Thạch An, đã đuợc UBND huyện Thạch An cấp GCNQSD đất số: AI 121150, cấp ngày 14/4/2006, Đất rừng phòng hộ, GCNQSD đất đứng tên ông Mông Văn A và bà Vương Thị C, địa chỉ: Thôn M (nay là Xóm K ), xã L, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. Nguồn gốc thửa đất là đất rừng đuợc Nhà nước giao quản lý từ năm 1994, sau khi giao đất anh trai ông A là Mông Văn N được trồng một cây Mai để xác định ranh giới, cây Mai trồng đúng vị trí khe ranh giới mà hiện nay đang tranh chấp. Đến năm 2004 rà soát lại để cấp GCNQSD đất năm 2006 tại thôn, xã có triển khai và đến thực địa để nhận đất nhưng không phải đến thực địa thửa đất mà nhìn từ đồi bên này chỉ sang bên kia đồi, gia đình ông A được giao đất tại thửa đất có tên gọi là Trà Lẩu, xã L thửa đất số 659, tờ bản đồ sổ 1, diện tích 41.992,0 m² đã được UBND huyện Thạch An cấp GCNQSD đất số: AI 121150, cấp ngày 14/4/2006 đứng tên hộ ông Mông Văn A và bà Vương Thị C, địa chỉ Thôn M (Nay là Xóm K ), xã L, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. Vào số cấp GCNQSD đất: H.00749. Đến năm 2018 xảy ra tranh chấp nguyên nhân do ông B tranh chấp đất rừng phía ngoài sau nhà chúng tôi (A), ông A có đơn yêu cầu thôn và UBND xã L giải quyết, khi giải quyết có địa chính xã, cán bộ Kiếm lâm và ban Mặt trận thôn đến thực địa giải quyết thì mới xác định được vị trí ranh giới của thửa đất số 659 của gia đình tôi (A) với thửa đất số 705 của ông B. Khi cán bộ Kiểm Lâm dùng máy xác định ranh giới giữa hai thửa đất tôi (A) mới biết được ranh giới thửa đất số 659 và thửa đất sổ 705 là tại khe gốc Mai, chứ không phải khe Cốc Phường như ông B đã chỉ cho tôi (A), khi nhận đất tôi (A) không biết xem bản đồ và ông B nói là đất của gia đình tôi chỉ đến khe ngoài Cốc Phường chứ không phải đến khe gốc Mai. Tại vị trí đất tranh chấp năm 2009 ông B đã trồng cây keo lẫn sang đất của gia đình ông A. Đến năm 2019 ông B khai thác cây keo và trồng lại cây keo khi đó đất đang tranh chấp chưa được giải quyết.
Khi giải quyết tranh chấp ranh giới ông B khai về ranh giới giữa hai thửa đất 659 của tôi (A) và thửa đất 705 của ông B, ông B khai đã thỏa thuận với tôi (A) về ranh giới thửa đất là tại khe ngắn Cốc Phường chứ không phải tại khe gốc cây Mai, về việc này tôi (A) khẳng định không có, khi cấp GCNQSD đất ông B nói đất tôi đến khe cốc Phường do tôi (A) không biết xem bản đồ nên tin ông B.
Nay tôi (A) yêu cầu được quyền quản lý sử dụng toàn bộ diện tích rừng đang tranh chấp với ông B và yêu cầu ông B khai thác toàn bộ số cây Keo, Mỡ, Quế và chuyến toàn bộ số cây Keo mới trồng sang vị trí đất khác để trả lại đất cho gia đình tôi (A) quản lý, sử dụng trồng rừng. Riêng phần đất Nông nghiệp của anh Mông Văn Z tôi không tranh chấp mà để anh Z quản lý sử dụng. Ngoài ra tôi (A) không trình bày và yêu cầu gì thêm.