TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc |
Bản án số: 450/2024/HS-PT Ngày: 10 - 6 - 2024 |
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Văn Mười Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Đắc Minh
Ông Lê Hoàng Tấn
Thư ký phiên tòa: Bà Tiếu Phương Quyền, Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Ông Trần Ngọc Đảm, Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 6 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 105/2024/TLPT-HS ngày 31/01/2024. Do có Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 600/2023/HS-ST ngày 20/12/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo bị kháng nghị: Ngô Trọng T, sinh năm 1980 tại Thành phố Hà Nội; nơi thường trú: 56, Tổ G, phường Q, thành phố H, tỉnh Hòa Bình; chỗ ở: Phòng trọ nhà số B B, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: lao động tự do; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Xuân Đ và bà Nguyễn Thị K; có vợ Nguyễn Phương T1 và 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không;
Nhân thân:
+ Bản án số 37/2007/HSST ngày 07/02/2007, bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/8/2008, đã thi hành phần dân sự.
+ Ngày 14/9/2011, bị Công an thành phố H, tỉnh Hòa Bình bắt hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, Ủy ban nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình ra Quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc, ngày 03/8/2012 chấp hành xong quyết định.
+ Bản án số 88/2013/HSST ngày 15/4/2013, bị Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/12/2014, đã thi hành phần dân sự.
Bị bắt, tạm giam ngày 11/5/2022 (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thị Bích T2 thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt).
Địa chỉ: số D Bà H, Phường H, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 11/5/2022, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận T và Công an P, quận T tiến hành kiểm tra hành chính Phòng trọ nhà số B B, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm kiểm tra trong phòng trọ có Ngô Trọng T và Lê Minh T3. Kết quả kiểm tra, phát hiện, thu giữ: 01 đĩa kim loại bên trong chứa bột màu hồng là ma túy thể rắn, khối lượng 7,7097 gam, loại Methamphetamine và 01 muỗng xúc kim loại cán nhựa; 02 đĩa thủy thủy tinh, 01 muỗng kim loại; 01 rổ kim loại bên trong có: 01 bình xịt bằng nhựa, 01 ly thủy tinh, 01 cốc thủy tinh loại 50ml, 01 khay kim loại, 01 khay thủy tinh, 01 đĩa thủy tinh, 01 kéo kim loại, 03 quẹt gas, 01 ống hút nhựa, 01 ống nhỏ giọt bằng thủy tinh có đầu bóp bằng nhựa; 02 bình gas, 01 bếp điện từ, 01 rổ nhựa bên trong có 01 nắp kim loại; trong nhà vệ sinh có: 01 máy dập bằng kim loại. Ngô Trọng T khai nhận các dụng cụ và chất bột màu hồng trên là dụng cụ và ma túy để T pha trộn làm thành các viên ma túy dạng nén để sử dụng cá nhân.
Tiếp tục khám xét khẩn cấp tại nơi ở của Ngô Trọng T, kết quả:
Thu giữ trong hộc tủ phía trên bên trái tủ gỗ của Ngô Trọng T: 01 đĩa thủy tinh bên trong có chứa chất bột màu hồng là ma túy thể rắn, khối lượng 13,9869 gam, loại Methamphetamine và 01 muỗng xúc bằng kim loại cán gỗ; 01 khay thủy tinh bên trong có chứa bột màu hồng là ma túy thể rắn, khối lượng 122,18 gam, loại Methamphetamine; 01 hộp bằng kim loại bên trong có: 08 gói nylon màu đen bên trong có chứa 1440 viên nén tròn màu đỏ là ma túy thể rắn, có tổng
khối lượng 123,52 gam, loại Methamphetamine và 01 gói nylon màu xanh chứa 24 viên nén tròn màu đỏ là ma túy thể rắn, có tổng khối lượng 2,3427 gam, loại Methamphetamine; 01 chai nhựa nắp đen bên trong có chứa dung dịch không màu; 01 chai nhựa nhãn “C A” chứa dung dịch không màu; 01 chai nhựa nhãn “Clear Crystal Epoxy Resin B” chứa dung dịch; 06 lọ thủy tinh màu nâu chứa dung dịch; 01 chai nhựa nắp trắng bên trong chứa dung dịch màu nâu đen bên ngoài dán nhãn “Vanilla”; 01 chai nhựa nắp trắng bên trong chứa dung dịch màu đỏ; 01 lọ thủy tinh nắp màu đỏ; 01 lọ thủy tinh nắp màu đen; 01 lọ thủy tinh bên ngoài dán nhãn “Vanilla Swril” bên trong chứa dung dịch màu vàng; 01 lọ thủy tinh màu nâu nắp đen bên ngoài có chữ “Vanilla”; 01 chai nhựa nắp trắng bên ngoài có chữ “BareVanilla” bên trong có dung dịch đỏ; 01 lọ thủy tinh màu nâu nắp đen bên ngoài có chữ “Cocoa Flavor”; 01 hộp bằng kim loại có nắp đậy bằng kim loại; 01 bình hút bằng thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh.
Qua giám định phát hiện ma túy trong 02 chai cụ thể: 01 chai thủy tinh màu nâu chứa chất lỏng màu đỏ có thể tích 25,0ml, tìm thấy chất ma túy Methamphetamine, hàm lượng Methamphetamine trong 25,0ml là 0,0325 gam; 01 chai thủy tinh màu nâu chứa chất lỏng màu đỏ có thể tích 11,5ml, tìm thấy chất ma túy Methamphetamine, hàm lượng Methamphetamine trong 11,5ml là 0,0150 gam.
Thu trong hộc tủ phía dưới bên trái tủ gỗ: 01 hộp kim loại bên trong có chứa bột nhão màu hồng là ma túy thể rắn, khối lượng 159,64 gam, loại Methamphetamine và 01 muỗng bằng kim loại.
Thu trong hộc tủ phía trên bên phải tủ gỗ: 01 lọ thủy tinh nắp màu đỏ chứa chất bột màu hồng là ma túy thể rắn, khối lượng 194,00 gam, loại Methamphetamine.
Thu trên mặt bàn để ti vi: 02 gói ny lon màu đen chứa 390 viên nén tròn màu đỏ là ma túy thể rắn, có tổng khối lượng 33,4477 gam, loại Methamphetamine; 01 lọ thủy tinh nắp kim loại chứa dung dịch màu đỏ; 01 lọ thủy tinh nắp kim loại chứa dung dịch màu cam; 02 cốc thủy tinh (01 cốc dung tích 50ml, 01 cốc dung tích 100ml); 01 can nhựa dung tích 1 lít chứa dung dịch; 01 bếp điện. Qua giám định các chất lỏng không chứa ma túy.
Thu trong hộc tủ bàn tivi: 01 hộp kim loại bên trong có chứa 275 viên nén tròn màu đỏ là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 22,81 gam, loại Methamphetamine; 01 khay thủy tinh bên trong có chứa bột màu hồng là ma túy thể rắn, khối lượng 1,0754 gam, loại Methamphetamine và 01 gói ny lon chứa 99 viên nén tròn màu đỏ, các mảnh vụn viên nén màu đỏ đều là ma túy thể rắn,
có tổng khối lượng 9,6336 gam, loại Methamphetamine; 01 gói nylon bên trong có chứa chất bột màu trắng có khối lượng 442,06 gam, không tìm thấy ma túy.
T4 trong ngăn thứ 2 từ trên xuống của máy sấy để cạnh bàn tivi: 01 mảnh giấy bạc bên trên có chứa mảnh vụn viên nén màu hồng là ma túy ở thể rắn, khối lượng 77,54 gam, loại Methamphetamine.
Toàn bộ số ma túy thu giữ của Ngô Trọng T đã được giám định, kết quả thể hiện tại Bản kết luận giám định số 2778/KLGĐ-H ngày 19/5/2022 và số 2917/KLGĐ-H ngày 26/5/2022 của Phòng K1, Công an Thành phố H.
Tại cơ quan điều tra, Ngô Trọng T khai nhận: T nghiện ma túy hồng phiến (yaba) và mùi hương vani. Do không kiếm được người bán ma túy có mùi vani nên T nảy sinh ý định pha trộn các loại bột và ma túy với nhau để tạo ra các viên ma túy hồng phiến có mùi vani để sử dụng. T đã nhiều lần điều khiển xe mô tô một mình chạy đến khu vực đường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy “đá” của những người không rõ lai lịch. Sau đó, mang ma túy về phòng trọ tại nhà số B B, Phường A, quận T. Tại đây, T sử dụng các loại bột gồm bột cà phê, bột màu đỏ, hương liệu mùi vani trộn với nhau tạo thành hỗn hợp với tỷ lệ 60% bột cà phê, 10% ma túy loại Methamphetamine, 30% còn lại là cồn, chất tạo mùi vani, nước, màu thực phẩm. Hỗn hợp này, T tiếp tục trộn với nước rồi đem khuấy trên bếp điện từ cho đến khi cạn nước. Sau đó, T nghiền nhỏ, pha loãng ma túy loại Methamphetamine với nước rồi trộn với hỗn hợp vừa khuấy này. Trộn ma túy xong, T mang hỗn hợp trên bỏ vào trong lò sấy khoảng 4-5 giờ. Sau khi hỗn hợp khô, T nghiền nhỏ rồi dùng máy dập ép thành các viên nén tròn màu đỏ hồng, cất vào trong các gói nylon để bảo quản sử dụng dần. Toàn bộ số ma túy mà Cơ quan Công an thu giữ trong phòng là do T đã và đang pha trộn, ép thành các viên nén. T cất giữ số ma túy này trong phòng mục đích là để sử dụng cá nhân, không có ý định bán cho người khác. Mỗi ngày T sử dụng khoảng 20 viên ma túy do mình tự pha trộn bằng hình thức đốt viên nén trên giấy bạc rồi hít khói từ viên nén bị đốt cháy.
Lê Minh T3 khai nhận: T3 là bạn quen biết với T từ tháng 02/2022, việc T pha trộn và cất giấu ma túy trong phòng của T thì T3 không biết và không tham gia cùng. Lời khai của T3 phù hợp với lời khai của T. Do chưa có căn cứ để xử lý đối với T3 nên Công an quận T đã bàn giao cho Công an P, quận T xử lý theo quy định. Ngày 13/5/2022, Ủy ban nhân dân Phường A, quận T đã ra Quyết định đưa người nghiện ma túy vào Cơ sở xã hội N đối với Lê Minh T3.
Vật chứng của vụ án:
01 thùng niêm phong và 11 gói niêm phong là mẫu vật còn lại sau giám định; 01 đĩa bằng kim loại, 02 muỗng xúc bằng kim loại; 02 đĩa thủy tinh; 01 rổ
bằng kim loại bên trong có: 01 bình xịt bằng nhựa, 01 ly thủy tinh, 01 cốc thủy tinh loại 50ml, 01 khay bằng kim loại, 01 khay bằng thủy tinh, 01 đĩa thủy tinh, 01 kéo bằng kim loại, 03 quẹt gas, 01 ống hút bằng nhựa, 01 ống nhỏ giọt bằng thủy tinh đầu bóp bằng nhựa.
02 bình gas, 01 bếp điện từ (phần mặt bếp bị vỡ, nứt), 01 rổ bằng nhựa bên trong có 01 nắp bằng kim loại, 01 đĩa thủy tinh và 01 đồ xúc bằng kim loại, cán cầm bằng gỗ, 01 hộp bằng kim loại, 01 khay thủy tinh, 01 lọ thủy tinh nắp màu đỏ không chứa gì, 01 lọ thủy tinh nắp màu đen không chứa gì, 01 hộp bằng kim loại có nắp đậy bằng kim loại, 01 bình hút bằng thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh, 01 hộp kim loại và 01 muỗng bằng kim loại, 02 cốc thủy tinh gồm: 01 cốc dung tích 50ml, 01 cốc dung tích 100ml, 01 bếp điện, 01 hộp kim loại, 01 khay thủy tinh, 01 máy sấy.
Tại Bản Cáo trạng số 65/CTr-VKSTPHCM-P1 ngày 18/01/2023, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Ngô Trọng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 600/2023/HS-ST ngày 20/12/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
Tuyên bố bị cáo Ngô Trọng T, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
Xử phạt Ngô Trọng T 20 (hai mươi) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 11/5/2022.
Ngoài ra, bản án còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/01/2024 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định kháng nghị số 07/QĐ-VKS- P1 đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Ngô Trọng T từ 20 năm tù lên tù chung thân.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc tăng hình phạt đối với bị cáo Ngô Trọng T.
Bị cáo Ngô Trọng T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử bị cáo T, về tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, không oan sai; đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu:
Về thủ tục tố tụng: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định. Về nội dung vụ án đúng như chủ tọa phiên tòa tóm tắt.
Về nội dung, bản án sơ thẩm quy kết bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có cơ sở, tuy nhiên xét về định lượng ma túy khi bị bắt quả tang với 767,9335 gam loại Methamphetamin là gấp 7 lần với mức khởi điểm của khung hình phạt, xét thấy bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; sau khi chấp hành án xong bị cáo không biết ăn năn hối cải mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hơn, không còn khả năng cải tạo, cần phải cách ly vĩnh viễn bị cáo ra khỏi đời sống xã hội. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, sửa bản án sơ thẩm, tuyên phạt tù Chung thân đối với bị cáo Ngô Trọng T.
Người bào chữa của bị cáo Ngô Trọng T trình bày: Thống nhất về tội danh và hình phạt của cấp sơ thẩm. Hội đồng xét xử xem xét bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, toàn bộ số ma túy bị cáo cất giữ mục đích để sử dụng đã bị thu giữ và được pha trộn nhiều chất bột khác nhau; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ bị cáo bỏ nhà đi, con còn nhỏ sinh năm 2017, mẹ đã già,; bà nội của bị cáo là Bà Mẹ Việt Nam anh hùng; cha bị cáo được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động trong quá trình công tác tại Công ty TNHH MTV N1, mẹ bị cáo được Thủ tướng tặng bằng khen trong quá trình công tác tại Kho bạc Nhà nước H. Bị cáo luôn tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải trong quá trình giải quyết vụ án. Nhà nước luôn có chính sách khoan hồng đối với người phạm tội có thái độ thành khẩn như bị cáo. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo Ngô Trọng T nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận nội dung án sơ thẩm là đúng, bị cáo không kháng cáo nhưng Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NH N ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về thủ tục tố tụng:
Quyết định kháng nghị số 07/QĐ-VKS-P1 ngày 02/01/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong hạn luật định, hợp lệ nên đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Xét kháng nghị:
[2.1] Về tội danh: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không có kháng cáo, kháng nghị cũng không kháng nghị về tội danh nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không nhận định lại phần tội danh đối với bị cáo Ngô Trọng T
Đối với hành vi của bị cáo Ngô Trọng T tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine có tổng khối lượng 767,9335 gam nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Ngô Trọng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan, không sai.
[2.2] Về hình phạt:
Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo Ngô Trọng T đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo đã tàng trữ trái phép ma túy có khối lượng rất lớn là 767,9335 gam loại Methamphetamine, khối lượng này gấp 7 lần mức khởi điểm của khung hình phạt. Bản thân bị cáo nghiện ma túy nên hơn ai hết bị cáo là người phải nhận thức rõ ma túy là chất độc có hại cho sức khỏe của con người, khi sử dụng sẽ bị lệ thuộc và tàn phá nghiêm trọng cơ thể con người, là nguyên nhân gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng cho xã hội. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị đưa đi cai nghiện, bị cáo có 02 lần bị xử phạt tù về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng sau khi được trở về hòa nhập xã hội lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật, do đó mức án tù 20 năm mà cấp sơ thẩm đã áp dụng là chưa tương xứng.
Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly vĩnh viễn bị cáo Ngô Trọng T ra khỏi đời sống xã hội mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, mới
đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung như nội dung của Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp, có cơ sở, cần được chấp nhận.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Ngô Trọng T và người bào chữa cho bị cáo cho rằng bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, thái độ thành khẩn và đề nghị được Hội đồng xét xử xem xét, tuy nhiên các tình tiết này đã được cấp sơ thẩm áp dụng đầy đủ nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận lời trình bày của bị cáo cũng như lời bào chữa của Luật sư.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Ngô Trọng T.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Về án phí hình sự phúc thẩm:
Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án qui định “Viện kiểm sát” thuộc trường hợp không phải chịu án phí. Do đó, bị cáo Ngô Trọng T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015,
- Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 07/QĐ-VKS-P1 ngày 02/01/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 600/2023/HS-ST ngày 20/12/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, về phần hình phạt đối với bị cáo Ngô Trọng T.
Tuyên xử:
1/ Tuyên bố bị cáo Ngô Trọng T, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma.
Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử phạt Ngô Trọng T tù chung thân về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 11/5/2022.
Hội đồng xét xử tiếp tục tạm giam bị cáo Ngô Trọng T để đảm bảo thi hành
án.
2/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
3/ Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Ngô Trọng T không phải chịu. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
CÁC THẨM PHÁN
Lê Hoàng Tấn Nguyễn Đắc Minh | THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Văn Mười |
Bản án số 450/2024/HS-PT ngày 10/06/2024 của TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh
- Số bản án: 450/2024/HS-PT
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Ngày ban hành: 10/06/2024
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Sửa Bản án hình sự sơ thẩm