TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 437/2021/HNGĐ-ST Ngày: 14/6/2021
V/v: Tranh chấp ly hôn
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Võ Thị Mỹ Tiên
Các hội thẩm nhân dân:
Bà Nguyễn Thanh Vân.
Ông Đoàn Văn Rỹ.
Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thùy Dung - Thư ký Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Phan Xuân Hiền – Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 938/2020/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2021/QĐXX-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Hiền, sinh năm: 1971
Địa chỉ thường trú: 811A Tạ Quang Bửu, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.
Cư trú: 839A Tạ Quang Bửu, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Ông Nguyễn Bảo Hòa, sinh năm 1971
Địa chỉ: 811A Tạ Quang Bửu, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí
Minh.
(Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/9/2020 cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ nguyên đơn bà Trần Thị Hiền trình bày:
Bà Trần Thị Hiền và ông Nguyễn Bảo Hòa chung sống với nhau từ năm 1998 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 19/11/1998. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2013 do vợ chồng không bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, không tôn trọng lẫn nhau nên vợ chồng thường xuyên cải vã với nhau khiến cho đời sống hôn nhân luôn căng thẳng, ngột ngạt và đã ly thân từ năm 2015 cho đến nay, mạnh ai nấy sống. Dù hai bên đã cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng không thành, nay tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Hiền yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Bảo Hòa.
Về nuôi con chung: Bà Trần Thị Hiền xác định vợ chồng chung sống với nhau có 03 con chung tên Nguyễn Đức Huy Hưng, sinh ngày 19/12/1999 (thành niên); Nguyễn Ngọc Bảo Hân, sinh ngày 19/9/2003 và Nguyễn Ngọc Khánh Hà, sinh ngày 31/10/2007, ngoài ra không còn có con chung nào khác. Bà Hiền yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là trẻ Nguyễn Ngọc Bảo Hân và Nguyễn Ngọc Khánh Hà, không yêu cầu ông Nguyễn Bảo Hòa cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Bà Trần Thị Hiền xác định hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Bà Trần Thị Hiền xác định vợ chồng không có khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần đối với bị đơn ông Nguyễn Bảo Hòa đến Tòa án để tự khai, hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có bất kỳ văn bản nào phản hồi yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Hiền nên Tòa án không thể tiến hành thu thập được lời khai của ông Hòa và không hòa giải được.
Tại phiên tòa,
Nguyên đơn bà Trần Thị Hiền có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa; Bị đơn ông Nguyễn Bảo Hòa đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến khi xét xử theo quy định pháp luật tố tụng dân sự năm 2015 về xét xử sơ thẩm vụ án.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Riêng bị đơn không chấp hành đúng quy định tại Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn theo quy định tại các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
Nguyên đơn bà Trần Thị Hiền có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt bà Hiền.
Bị đơn ông Nguyễn Bảo Hòa đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải mà vẫn vắng mặt. Do vậy, theo quy định tại Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án không tiến hành hòa giải được.
Tại phiên tòa, bị đơn ông Nguyễn Bảo Hòa đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng ông Hòa vắng mặt không có lý do. Do vậy, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt ông Hòa.
Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Xét đơn yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị Hiền thì đây là tranh chấp ly hôn theo yêu cầu một bên, do bị đơn ông Nguyễn Bảo Hòa hiện cư trú tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về các yêu cầu của đương sự:
Xét thấy, bà Trần Thị Hiền và ông Nguyễn Bảo Hòa tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Giấy chứng nhận kết hôn số 173/98, quyển số 01 ngày 19/11/1998) nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận phù hợp với Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.
Xét yêu cầu của nguyên đơn bà Trần Thị Hiền cho rằng: Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2013 do vợ chồng không bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, không tôn trọng lẫn nhau nên vợ chồng thường xuyên cải vã với nhau khiến cho đời sống hôn nhân luôn căng thẳng, ngột ngạt và đã ly thân từ năm 2015 cho đến nay, mạnh ai nấy sống. Dù hai bên đã cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng không thành, nay tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Hiền yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Bảo Hòa.
Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông Nguyễn Bảo Hòa không đến Tòa để trình bày ý kiến tự khai, tạo điều kiện cho vợ chồng hòa giải, hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng ông Hòa vẫn vắng mặt mà không có lý do và cũng không có bất kỳ văn bản nào phản hồi yêu cầu khởi kiện của bà Hiền. Điều này thể hiện ông Hòa đã từ bỏ quyền lợi của mình, không còn tha thiết đến việc hàn gắn hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng đã không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh trầm trọng trong thời gian dài, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ cần chấp nhận.
Về nuôi con chung: Bà Trần Thị Hiền xác định vợ chồng chung sống với nhau có 03 con chung tên Nguyễn Đức Huy Hưng, sinh ngày 19/12/1999 (thành niên); Nguyễn Ngọc Bảo Hân, sinh ngày 19/9/2003 và Nguyễn Ngọc Khánh Hà, sinh ngày 31/10/2007, ngoài ra không còn có con chung nào khác. Bà Hiền yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là trẻ Nguyễn Ngọc Bảo Hân và Nguyễn Ngọc Khánh Hà, không yêu cầu ông Nguyễn Bảo Hòa cấp dưỡng nuôi con.
Hội đồng xét xử xét thấy việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con trẻ, trẻ tên Nguyễn Ngọc Bảo Hân, sinh ngày 19/9/2003 và Nguyễn Ngọc Khánh Hà, sinh ngày 31/10/2007 hiện đang sinh sống cùng bà Trần Thị Hiền, tại địa chỉ 839A Tạ Quang Bửu, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Bản tự khai ngày 29/12/2020 của trẻ Nguyễn Ngọc Bảo Hân và trẻ Nguyễn Ngọc Khánh Hà có nguyện vọng được sống với mẹ là Trần Thị Hiền. Bà Hiền yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 (hai) con, Con chung tên Nguyễn Đức Huy Hưng, sinh ngày 19/12/1999 (thành niên). Để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con chung, việc giao con chung cho bà Hiền tiếp tục nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho ông Hòa cho đến khi bà Hiền có yêu cầu là phù hợp. Ông Nguyễn Bảo Hòa có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai có quyền ngăn cản quy định tại các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và Gia đình. Nếu sau khi ly hôn bà Hiền và ông Hòa có yêu cầu tranh chấp về người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con thì giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
Về tài sản chung: Bà Trần Thị Hiền xác định hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
Về nợ chung: Bà Trần Thị Hiền xác định vợ chồng không có khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
Ý kiến phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên có căn cứ để chấp nhận.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Luật Phí và Lệ phí năm 2015; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
Khoản 2 Điều 21, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36,
điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Các Điều 8, Điều 9, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều
58, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014;
Căn cứ Luật Phí và Lệ phí năm 2015;
-Căn cứ điểm a, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Hiền về việc xin ly hôn với ông Nguyễn Bảo Hòa.
Về hôn nhân: Bà Trần Thị Hiền được ly hôn với ông Nguyễn Bảo Hòa (theo giấy chứng nhận kết hôn số 173/98, quyển số: 01 của Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 19/11/1998).
Về nuôi con chung: Giao 02 con chung tên là Nguyễn Ngọc Bảo Hân, sinh ngày 19/9/2003 và trẻ Nguyễn Ngọc Khánh Hà, sinh ngày 31/10/2007 cho bà
Trần Thị Hiền trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng cho con đối với ông Nguyễn Bảo Hòa cho đến khi bà Hiền có yêu cầu.
Người không trực tiếp nuôi con được quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung mà không ai được cản trở.
Vì lợi ích của trẻ, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Bà Trần Thị Hiền xác định hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Bà Trần Thị Hiền xác định vợ chồng không có khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà Trần Thị Hiền phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là
300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo biên lai số 0044481 ngày 02/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Hiền đã nộp đủ án phí.
Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Về Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
| T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Võ Thị Mỹ Tiên |
Bản án số 437/2021/HNGĐ-ST ngày 14/06/2021 của TAND Quận 8, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
- Số bản án: 437/2021/HNGĐ-ST
- Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 14/06/2021
- Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
- Tòa án xét xử: TAND Quận 8, TP. Hồ Chí Minh
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Hiền về việc xin ly hôn với ông Nguyễn Bảo Hòa. - Về hôn nhân: Bà Trần Thị Hiền được ly hôn với ông Nguyễn Bảo Hòa (theo giấy chứng nhận kết hôn số 173/98, quyển số: 01 của Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 19/11/1998). - Về nuôi con chung: Giao 02 con chung tên là Nguyễn Ngọc Bảo Hân, sinh ngày 19/9/2003 và trẻ Nguyễn Ngọc Khánh Hà, sinh ngày 31/10/2007 cho bà Trần Thị Hiền trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng cho con đối với ông Nguyễn Bảo Hòa cho đến khi bà Hiền có yêu cầu. Người không trực tiếp nuôi con được quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Về tài sản chung: Bà Trần Thị Hiền xác định hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Bà Trần Thị Hiền xác định vợ chồng không có khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.