TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Bản án số: 384/2022/HS-PT Ngày 13 tháng 6 năm 2022 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Ông Chung Văn Kết;
Các Thẩm phán:
Ông Trần Văn Mười;
Ông Lê Thành Long.
Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Tấn Duy Minh - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Ông Võ Phong Lưu - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 99/2022/TLPT-HS ngày 16 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Danh Thị Thu V;
Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HSST ngày 11 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
Bị cáo:
Danh Thị Thu V, sinh ngày 14/9/1976; Nơi đăng ký thường trú: tổ 4, khu phố M, thị trấn M1, huyện Ch, tỉnh Kiên Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khmer; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Nguyên là Phó giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng A (A) chi nhánh xã V, huyện Ch, tỉnh Kiên Giang; Tiền án, tiền sự: Không; Con ông Danh K (sinh năm 1947, chết) và bà Thái Thị T (sinh năm 1957); Em ruột có 03 người, lớn sinh năm 1978, nhỏ sinh năm 1986; Có chồng là Đỗ Minh T1 (sinh năm 1974) và 03 con (lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2017); Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/11/2020.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phạm Anh V, Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang.
Người bị hại:
1/. Bà Dương Thị N, sinh năm 1974. Nơi cư trú: đường M, phường R, thành
phố R1, tỉnh Kiên Giang.
2/. Bà Trần Thị Hoài N1, sinh năm 1964. Nơi cư trú: ấp M1, xã B, huyện Ch, tỉnh Kiên Giang.
3/. Bà Trần Thị Th, sinh năm 1954. Nơi cư trú: ấp V1, xã V, huyện Ch, tỉnh Kiên Giang.
4/. Bà Đặng Thị Ph, sinh năm 1958. Nơi cư trú: đường số 7, khu dân cư A, phường A, thành phố R1, tỉnh Kiên Giang.
5/. Bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1967. Nơi cư trú: ấp H, xã Th, huyện Ch, tỉnh Kiên Giang.
6/. Ông Trương Anh Ch, sinh năm 1978. Nơi cư trú: đường L, phường V2, thành phố R1, tỉnh Kiên Giang.
7/. Bà Trương Thị Thanh Ng, sinh năm 1963. Nơi cư trú: khu phố M2, thị trấn M1, huyện Ch, tỉnh Kiên Giang.
8/. Bà Cao Thị Xuân C, sinh năm 1962. Nơi cư trú: đường T, phường V2, thành phố R1, tỉnh Kiên Giang.
9/. Bà Ngô Thị Bích S, sinh năm 1969. Nơi cư trú: đường M, phường R, thành phố R1, tỉnh Kiên Giang.
Bị cáo, Luật sư, các bị hại có mặt.
Người kháng cáo: Các bị hại Trương Thị Thanh Ng, Ngô Thị Bích S, Trương Anh Ch, Trần Thị Th, Đặng Thị Ph, Trần Thị Hoài Nam, Cao Thị Xuân C, Dương Thị N và Nguyễn Thị Nh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Từ tháng 10/2017 đến tháng 03/2019 V nguyên là phó giám đốc phòng giao dịch Ngân hàng A (A) chi nhánh xã V, huyện Ch, tỉnh Kiên Giang, có mối quan hệ quen biết với bà Trần Thị Th, sinh năm 1954, cư trú: ấp V1, xã V, huyện Ch, tỉnh Kiên Giang; bà Đặng Thị Ph, sinh năm 1958, cư trú: lô 23 - C21 khu phố 3, phường A, thành phố R1, tỉnh Kiên Giang; bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1967, cư trú: ấp H, xã Th, huyện Ch, tỉnh Kiên Giang; bà Dương Thị N, sinh năm: 1974, cư trú: đường M, phường R, thành phố R1, tỉnh Kiên Giang; bà Trần Thị Hoài N1, sinh năm 1964, cư trú: ấp M1, xã B, huyện Ch, tỉnh Kiên Giang; ông: Trương Anh Ch, sinh năm: 1978, cư trú: đường L, phường V, thành phố R1, tỉnh Kiên Giang; bà Trương Thị Thanh Ng, sinh năm 1963, cư trú: khu phố M2, thị trấn M1, huyện Ch, tỉnh Kiên Giang; bà Cao Thị Xuân C, sinh năm 1962, cư trú: đường T, phường V2, thành phố R1, tỉnh Kiên Giang; bà Ngô Thị Bích S, sinh năm 1969, cư trú: đường M, phường R, thành phố R1, tỉnh Kiên Giang nhiều năm nên V hỏi vay tiền của bà Th, Ph, Nh, N, Hoài N1, Ng, C, S, ông Ch nhiều lần tại địa bàn huyện Ch, thành phố R1, tỉnh Kiên Giang với mục đích vay tiền để cho người khác vay lại với lãi suất cao hơn và đáo hạn ngân
hàng. Lúc đầu, do làm ăn có uy tín nên các người bị hại tin tưởng cho Danh Thị Thu V vay tiền nhiều lần với lãi suất từ 01% - 03%/tháng. Đến khoảng tháng 03/2019, Danh Thị Thu V không còn khả năng thanh toán tiền lãi, tiền gốc cho các người bị hại nên bỏ trốn khỏi địa phương nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan có thẩm quyền và những người mà V đang nợ tiền (đã niêm yết, triệu tập, thông báo 03 kỳ liên tiếp trên báo nhân dân, đài truyền hình Việt Nam VTV9) nhằm mục đích để chiếm đoạt tài sản. Cụ thể như sau:
Bà Trần Thị Hoài N1 (từng làm chung với V tại Ngân hàng): Vào ngày 04/10/2017, V vay của bà N1 số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), lãi suất 03%/tháng (có biên nhận) và ngày 25/12/2018 V vay thêm của Nh 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng), lãi suất 03%/tháng (có biên nhận), khoảng 06 ngày sau V trả lại tiền gốc cho Bà N1 là 20.000.000 đồng (hai chục triệu đồng). Tổng cộng 02 lần là 280.000.000 đồng (Hai trăm tám mươi triệu đồng) sau đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Bà Trần Thị Th (từng làm chung với V tại Ngân hàng): Vào ngày 02/5/2018, V vay của bà Th số tiền 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng), lãi suất 02%/tháng (có biên nhận) và đã trả lãi suất cho bà Th 02 tháng đầu được
12.000.000 đồng sau đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Bà Đặng Thị Ph (từng làm chung với V tại Ngân hàng): Vào ngày 08/10/2018, V vay của bà Ph số tiền 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng), lãi suất 03%/tháng (có biên nhận) và đã trả lãi suất cho bà Ph 04 tháng (tháng 02/2019) được 60.000.000 đồng sau đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Bà Ngô Thị Bích S (từng làm chung với V tại Ngân hàng): Vào ngày 19/11/2018, V vay của bà S số tiền 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng) và ngày 13/02/2019 V vay thêm 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu đồng), (có biên nhận). Tổng cộng 900.000.000 đồng (Chín trăm triệu đồng) và đã trả tiền gốc được 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng) còn nợ lại 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng) sau đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Bà Dương Thị N: Vào ngày 26/12/2018, V vay của bà N số tiền 350.000.000 đồng (Ba trăm năm mươi triệu đồng), lãi suất 03%/tháng (có biên nhận) sau đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Ông Trương Anh Ch: Vào ngày 03/01/2019, V vay của ông Ch số tiền 330.000.000 đồng (Ba trăm ba mươi triệu đồng), ngày 10/01/2019 V vay thêm của ông Ch là 130.000.000 đồng (Một trăm ba mươi triệu đồng) và ngày 03/02/2019 vay thêm 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng). Tổng cộng 03 lần là 560.000.000 đồng (Năm trăm sáu mươi triệu đồng), (có biên nhận chuyển khoản) sau đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Bà Trương Thị Thanh Ng (V trước đây là học trò Ng): Vào ngày 08/01/2019, V vay của bà Ng số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng), (có biên nhận) và ngày 01/02/2019 V vay thêm của Ng 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng), (chuyển khoản). Tổng cộng 02 lần là 180.000.000 đồng (Một trăm tám mươi triệu đồng) sau đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Bà Nguyễn Thị Nh: Vào ngày 04/3/2019, V vay của bà Nh số tiền 340.000.000 đồng (Ba trăm bốn mươi triệu đồng), lãi suất 03%/tháng (có biên nhận) và ngày 05/3/2021 V vay thêm của Nh 20.000.000 đồng (không có biên nhận). Tổng cộng 02 lần là 360.000.000 đồng (Ba trăm sáu mươi triệu đồng) sau đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Bà Cao Thị Xuân C (từng làm chung với V tại Ngân hàng): Vào ngày 23/4/2019, V vay của bà C số tiền 250.000.000 đồng (Hai trăm năm mươi triệu đồng), (có biên nhận) và đã trả tiền gốc được 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) còn nợ lại 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) sau đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Quá trình điều tra, Danh Thị Thu V thừa nhận có vay nhiều lần của bà Th, Ph, Nh, N, Hoài N1, Ng, C, S và ông Ch tại địa bàn huyện Ch, thành phố R1, tỉnh Kiên Giang với tổng số tiền 3.030.000.000 đồng (Ba tỷ không trăm ba mươi triệu đồng), do không còn khả năng trả lãi và gốc nên đã bỏ trốn khỏi địa phương nhằm chiếm đoạt số tiền nói trên.
Hiện nay, những người bị hại bà Trần Thị Hoài N1 yêu cầu V bồi thường 280.000.000 đồng; Trần Thị Th 300.000.000 đồng; Đặng Thị Ph 500.000.000 đồng; Ngô Thị Bích S 300.000.000 đồng; Dương Thị N 350.000.000 đồng; Trương Anh Ch 560.000.000 đồng; Trương Thị Thanh Ng 180.000.000 đồng; Nguyễn Thị Nh 360.000.000 đồng; Cao Thị Xuân C 200.000.000 đồng nhưng V chưa bồi thường.
Tại Bản Kết luận giám định số: 536/KL-KTHS, ngày 1677/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận:
Chữ ký mang tên Danh Thị Thu V và chữ viết ghi họ tên “Danh Thị Thu V” trên các mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A6 do cùng một người ký và viết ra.
Chữ ký mang tên Danh Thị Thu V trên các mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A6 so với chữ ký mang tên Danh Thị Thu V trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M5 do cùng một người ký ra.
Vật chứng trong vụ án thu giữ gồm có: Các biên nhận vay mượn tiền và các giấy nhận nợ của Danh Thị Thu V kèm theo hồ sơ vụ án.
Về phần trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự thỏa thuận giữa Danh Thị Thu V và Trần Thị Hoài N1 yêu cầu V bồi thường 280.000.000 đồng; Trần Thị Th 300.000.000 đồng; Đặng Thị Ph 500.000.000đồng; Ngô Thị Bích S 300.000.000 đồng; Dương Thị N 350.000.000 đồng; Trương Anh Ch 560.000.000 đồng; Trương Thị Thanh Ng 180.000.000 đồng; Nguyễn Thị Nh 360.000.000 đồng; Cao Thị Xuân C 200.000.000 đồng chưa khắc phục V có nghĩa vụ tiếp tục bồi thường.
Ngoài ra còn có 09 người mà bị cáo có vay mượn tiền khác gồm: Nguyễn Văn N, Lê Văn Nh, Đặng Thị N2, Trần Quốc Th, Nguyễn Thị H, Trần Minh S, Trương Thị Thu H, Nguyễn Thị H1 và Lê Văn L. Hiện nay ông Lê Văn Nh đã
khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản với V trong 01 vụ kiện dân sự khác mà Tòa án tỉnh Kiên Giang (đã xét xử vào ngày 05/11/2019) còn lại Nguyễn Văn N, Đặng Thị N2, Trần Quốc Th, Nguyễn Thị H, Trần Minh S, Trương Thị Thu H, Nguyễn Thị H1 đã được Tòa án nhân nhân huyện Ch, tỉnh Kiên Giang ra quyết định công nhận sự tự thỏa thuận của các đương sự. Riêng Lê Văn L không làm đơn hay cung cấp tài liệu chứng cứ và không yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kiên Giang xử lý.
Tại Cáo trạng số 74/CT-VKSTKG-P2, ngày 02/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Danh Thị Thu V về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” được quy định tại khoản 4 Điều 175 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HSST ngày 11 tháng 01 năm 2022, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Danh Thị Thu V phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt bị cáo Danh Thị Thu V 13 (mười ba) năm tù, thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 10/11/2020.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều48 BLHS, Điều 589 BLDS; Ghi nhận sự tự thỏa thuận giữa bị cáo Danh Thị Thu V và những người bị hại, bị cáo có nghĩa vụ hoàn trả lại số tiền đã chiếm đoạt theo yêu cầu của các bị hại gồm:
Trần Thị Hoài N1 280.000.000 (hai trăm tám mươi triệu) đồng.
Trần Thị Th 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng;
Đặng Thị Ph 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng;
Ngô Thị Bích S 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng;
Dương Thị N 350.000.000 (ba trăm năm mươi triệu) đồng;
Trương Anh Ch 560.000.000 (năm trăm sáu mươi triệu) đồng;
Trương Thị Thanh Ng 180.000.000 (một trăm tám mươi triệu) đồng;
Nguyễn Thị Nh 360.000.000 (ba trăm sáu mươi triệu) đồng;
Cao Thị Xuân C 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, lãi suất chậm thi hành án, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo vụ án theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị hại gồm các ông bà Dương Thị N, Trần Thị Hoài N1, Trần Thị Th, Đặng Thị Ph, Nguyễn Thị Nh, Trương Anh Ch, Trương Thị Thanh Ng, Cao Thị Xuân C, Ngô Thị Bích S có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung: tăng nặng hình phạt đối với bị cáo do bị cáo thực hiện hành
vi lừa đảo có tính chuyên nghiệp; làm rõ việc vay mượn tiền của bị cáo và bị hại; giải quyết việc khắc phục hậu quả ghi rõ nội dung trả tiền cả gốc và lãi suất ngân hàng đến thời điểm trả nợ.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Những người bị hại vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Hành vi vay, mượn tiền có trả lãi, sau đó bỏ trốn của bị cáo đã phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản;việc các bị hại kháng cáo cho rằng phải xử bị cáo tội Lừa đảo do lấy tiền mua nhà, đất. Tuy nhiên, các bị hại không có chứng cứ chứng minh nên đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về xử lý vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận phù hợp với nội dung bản cáo trạng, nhận định của bản án sơ thẩm và các chứng cứ, tại liệu có tại hồ sơ, thể hiện:
Trong khoảng thời gian từ tháng 10/2017 đến tháng 3/2019, bị cáo Danh Thị Thu V vay mượn tiền của nhiều người bị hại để cho khách hàng của bị cáo vay lại đáo hạn Ngân hàng, hoặc trả nợ cá nhân. Cụ thể trong vụ án này, bị cáo vay của bà Trần Thị Hoài N1 280.000.000 đồng, bà Trần Thị Th 200.000.000 đồng, Đặng Thị Ph 500.000.000 đồng (đã trả gốc lãi được 60.000.000 đồng), bà Ngô Thị Bích S 900.000.000 đồng (đã trả được 600.000.000 đồng), bà Dương Thị N 350.000.000 đồng, ông Trương Anh Ch 560.000.000 đồng, bà Trương Thị Thanh Ng 180.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Nh 360.000.000 đồng, bà Cao Thị Xuân C 200.000.000 đồng. Sau một thời gian, bị cáo bị thâm hụt tiền, mất khả năng thanh toán nên đã thay đổi số điện thoại, bỏ trốn khỏi địa phương nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả tiền cho người bị hại. Tổng số tiền bị cáo đã vay mượn của 09 bị hại và bỏ trốn nhằm chiếm đoạt là 3.030.000.000 đồng.
Với hành vi nêu trên, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2]. Xét kháng cáo của 09 người bị hại, thấy rằng:
[2.1]. Về tội danh: Bị cáo vay mượn tiền của các bị hại là giao dịch dân sự hợp pháp, sau đó do không có khả năng thanh toán nợ nên bị cáo bỏ trốn nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, chiếm đoạt số tiền đã vay mượn của các bị hại. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tàinhư cấp sơ thẩm đã xét xử. Vì vậy, kháng cáo của những người bị hại cho rằng có dấu hiệu lừa đảo là không phù hợp với cấu thành cơ bản của tội Lừa đảo
chiếm đoạtn tài sản; vì không đủ căn cứ chứng minh bị cáo có thủ đoạn gian dối ngay từ đầu. Các bị hại cho rằng bị cáo sử dụng số tiền chiếm đoạt để mua nhà, đất nhưng lại không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh.
[2.2]. Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của những người bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá tính chất hành vi phạm tội của bị cáo; áp dụng cho bị cáo đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo 13 năm tù là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo; đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải tăng hình phạt đối với bị cáo.
[2.3]. Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm bị cáo và các bị hại đã thống nhất với nhau về số tiền bị cáo đã chiếm đoạt; bị cáo tự nguyện bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt theo yêu cầu của các bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm đã ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các bên theo quy định pháp luật. Nên nội dung kháng cáo của các bị hại liên quan đến trách nhiệm dân sự đã được Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết; về phần lãi suất chậm thi hành án cũng đã được tuyên trong phần quyết định bản án sơ thẩm.
[3]. Từ những nhận định, phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của những người bị hại; Quan điểm của Luật sư, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm là phù hợp.
[4]. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị hại kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
[5]. Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của người bị hại gồm các ông bà Dương Thị
N, Trần Thị Hoài N1, Trần Thị Th, Đặng Thị Ph, Nguyễn Thị Nh, Trương Anh
Ch, Trương Thị Thanh Ng, Cao Thị Xuân C, Ngô Thị Bích S.
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HSST ngày 11 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
Tuyên xử:
Căn cứ vào Khoản 4 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Danh Thị Thu V phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt bị cáo Danh Thị Thu V 13 (mười ba) năm tù, thời điểm chấp
hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 10/11/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS, Điều 589 BLDS; Ghi nhận sự tự thỏa thuận giữa bị cáo Danh Thị Thu V và những người bị hại, bị cáo có nghĩa vụ hoàn trả lại số tiền đã chiếm đoạt theo yêu cầu của các bị hại gồm:
Trần Thị Hoài N1 280.000.000 (hai trăm tám mươi triệu) đồng.
Trần Thị Th 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng;
Đặng Thị Ph 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng;
Ngô Thị Bích S 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng;
Dương Thị N 350.000.000 (ba trăm năm mươi triệu) đồng;
Trương Anh Ch 560.000.000 (năm trăm sáu mươi triệu) đồng;
Trương Thị Thanh Ng 180.000.000 (một trăm tám mươi triệu) đồng;
Nguyễn Thị Nh 360.000.000 (ba trăm sáu mươi triệu) đồng;
Cao Thị Xuân C 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất qui định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị hại Dương Thị N, Trần Thị Hoài N1, Trần Thị Th, Đặng Thị Ph, Nguyễn Thị Nh, Trương Anh Ch, Trương Thị Thanh Ng, Cao Thị Xuân C, Ngô Thị Bích S, mỗi bị hại phải chịu 200.000 đồng.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- BH (9); - Lưu VP(3), HS(2). 24b.HDT. | TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Chung Văn Kết |
Bản án số 384/2022/HS-PT ngày 13/06/2022 của TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh
- Số bản án: 384/2022/HS-PT
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Ngày ban hành: 13/06/2022
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Trong khoảng thời gian từ tháng 10/2017 đến tháng 3/2019, bị cáo Danh Thị Thu V vay mượn tiền của nhiều người bị hại để cho khách hàng của bị cáo vay lại đáo hạn Ngân hàng, hoặc trả nợ cá nhân. Cụ thể trong vụ án này, bị cáo vay của bà Trần Thị Hoài N1 280.000.000 đồng, bà Trần Thị Th 200.000.000 đồng, Đặng Thị Ph 500.000.000 đồng (đã trả gốc lãi được 60.000.000 đồng), bà Ngô Thị Bích S 900.000.000 đồng (đã trả được 600.000.000 đồng), bà Dương Thị N 350.000.000 đồng, ông Trương Anh Ch 560.000.000 đồng, bà Trương Thị Thanh Ng 180.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Nh 360.000.000 đồng, bà Cao Thị Xuân C 200.000.000 đồng. Sau một thời gian, bị cáo bị thâm hụt tiền, mất khả năng thanh toán nên đã thay đổi số điện thoại, bỏ trốn khỏi địa phương nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả tiền cho người bị hại. Tổng số tiền bị cáo đã vay mượn của 09 bị hại và bỏ trốn nhằm chiếm đoạt là 3.030.000.000 đồng.
