Hệ thống pháp luật
THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 38/2021/HNGĐ-ST của TAND TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Số bản án: 38/2021/HNGĐ-ST
  • Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 19/04/2021
  • Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
  • Tòa án xét xử: TAND TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Về quan hệ hôn nhân: Bà P và ông M tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1998, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, có đăng ký kết hôn và được UBND xã Vĩnh Phước A, huyện Gò Quao cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 22/8/2001, nên đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Phượng, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà P và ông M không còn yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau để xây dựng mái ấm gia đình bền vững và hạnh phúc. Cụ thể, tại phiên tòa bà P trình bày nguyên nhân là do ông M có người phụ nữ khác bên ngoài nên bỏ mặc bà sống ra sao thì sống dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng xấu đi, hiện nay tình cảm vợ chồng bà không còn nữa, bà và ông M đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay vẫn không hàn gắn được. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa bà P và ông M đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong nghị án Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà P được ly hôn với ông M . Về quan hệ con chung: Bà P xác định có 02 người con chung tên Tống Thái Anh, sinh năm 1995 và Tống Thái Dương, sinh năm 2004. Cháu Dương hiện đang sống với bà Phượng. Bà P yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Dương đến tuổi trưởng thành. Tại biên bản lấy lời khai của cháu Dương có nguyện vọng được sống chung với mẹ là Mai Thị Phượng. Căn cứ khoản 2 Điều 92 Luật hôn nhân gia đình năm 2000, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con của bà P là hoàn toàn phù hợp. Bà P không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với người con chung tên Tống Thái Anh, sinh năm 1995, đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về quan hệ tài sản chung: Bà P xác định bà và ông M có tạo lập được tài sản chung là thửa đất số 25, tờ bản đồ số 37, theo giấy chứng nhận QSD đất số BX 048624 và thửa đất số 26a + 26, tờ bản đồ số 37 theo giấy chứng nhận QSD đất số AB 063421 tọa lạc tại khu phố Vĩnh Viễn, phường Vĩnh Hiệp, Rạch Giá, Kiên Giang. Bà P xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về quan hệ nợ chung: Bà P xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với bị đơn ông Tống Văn M , căn cứ khoản 2 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về nghĩa vụ chứng minh của đương sự “Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó”. Nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, ông M không có sự phản đối nào đối với yêu cầu của nguyên đơn cũng như chứng cứ do nguyên đơn cung cấp. Do đó, nếu ông M có tranh chấp về con chung, cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung của vợ chồng thì ông M có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.
Tải về bản án