Bản án số 361/2020/HNGĐ-ST của TAND TX. Gò Công, tỉnh Tiền Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Số bản án: 361/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 26/11/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND TX. Gò Công, tỉnh Tiền Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: * Trong đơn khởi kiện ngày 23 tháng 6 năm 2020 của chị Nguyễn Thị Ngọc D là nguyên đơn;tại Văn bản bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho chị Nguyễn Thị Ngọc D của luật sư Nguyễn Văn Th và tại phiên tòa hôm nay chị Nguyễn Thị Ngọc D trình bày:
Chị D và anh N kết hôn năm 2019, được Ủy ban nhân dân xã Tân Trung cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2019. Thời gian chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẩn do cả hai không hợp tính, không chia sẻ được mọi việc trong cuộc sống. Anh, chị ly thân hơn 01 năm. Nay tình cảm không còn Chị D yêu cầu được ly hôn với anh N. Về con chung: Anh chị có 01 người con chung tên Nguyễn Thành D, sinh ngày 08 tháng 3 năm 2020; khi ly hôn Chị D yêu cầu được trực tiếp nuôi và yêu cầu anh N cấp dưỡng mỗi tháng 1.000.000 đồng cho cháu D tính từ khi án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu D đủ 18 tuổi. Về tài sản chung: 10 chỉ vàng 24k bán để xây nhà tiền chế nên yêu cầu chia đôi xin nhận bằng tiền là 26.500.000 đồng, yêu cầu anh N hoàn lại cho Chị D số tiền này trong thời hạn 01 tháng tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật và nợ chung không có. Tại phiên tòa, Chị D thay đổi yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con là buộc anh N cấp dưỡng cho cháu D mỗi tháng 750.000 đồng; về tài san chung yêu cầu hoàn lại giá trị 05 chỉ vàng 24k với số tiền 26.500.000 đồng trong thời hạn 04 tháng tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật.
* Anh Đặng Anh Nh là bị đơn trình bày: Chị D ly hôn, anh đồng ý vì sống chung không hợp tính. Về con chung: Anh đồng ý để 01 người con chung là cháu Nguyễn Thành D cho Chị D trực tiếp nuôi, anh cấp dưỡng mỗi tháng 750.000 đồng. Về tài sản chung: 10 chỉ vàng cưới vợ chồng bán để xây nhà tiền chế, đồng ý theo yêu cầu của Chị D nhưng xin giao bằng tiền là 26.500.000 đồng trong thời hạn 06 tháng. Về nợ chung không có.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu trình tự, thủ tục tố tụng: Căn cứ vào khoản 4 Điều 27 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; các điều 21, 22, 26, 35, 46, 48, 49, 51, 63, 68, 70, 71, 72, 73, 92, 96, 97 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án và đương sự tuân theo quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị D là được ly hôn với anh N; về con chung giao cháu D cho Chị D trực tiếp nuôi, anh N phải phải cấp dưỡng mỗi tháng 750.000 đồng; về tài sản chung buộc anh N có nghĩa vụ giao lại cho Chị D số tiền 26.500.000 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật; về nợ chung không có; về án phí áp dụng Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH thì đương sự chịu theo quy định.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 361/2020/HNGĐ-ST của TAND TX. Gò Công, tỉnh Tiền Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Số bản án: 361/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 26/11/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND TX. Gò Công, tỉnh Tiền Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: * Trong đơn khởi kiện ngày 23 tháng 6 năm 2020 của chị Nguyễn Thị Ngọc D là nguyên đơn;tại Văn bản bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho chị Nguyễn Thị Ngọc D của luật sư Nguyễn Văn Th và tại phiên tòa hôm nay chị Nguyễn Thị Ngọc D trình bày:
Chị D và anh N kết hôn năm 2019, được Ủy ban nhân dân xã Tân Trung cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2019. Thời gian chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẩn do cả hai không hợp tính, không chia sẻ được mọi việc trong cuộc sống. Anh, chị ly thân hơn 01 năm. Nay tình cảm không còn Chị D yêu cầu được ly hôn với anh N. Về con chung: Anh chị có 01 người con chung tên Nguyễn Thành D, sinh ngày 08 tháng 3 năm 2020; khi ly hôn Chị D yêu cầu được trực tiếp nuôi và yêu cầu anh N cấp dưỡng mỗi tháng 1.000.000 đồng cho cháu D tính từ khi án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu D đủ 18 tuổi. Về tài sản chung: 10 chỉ vàng 24k bán để xây nhà tiền chế nên yêu cầu chia đôi xin nhận bằng tiền là 26.500.000 đồng, yêu cầu anh N hoàn lại cho Chị D số tiền này trong thời hạn 01 tháng tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật và nợ chung không có. Tại phiên tòa, Chị D thay đổi yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con là buộc anh N cấp dưỡng cho cháu D mỗi tháng 750.000 đồng; về tài san chung yêu cầu hoàn lại giá trị 05 chỉ vàng 24k với số tiền 26.500.000 đồng trong thời hạn 04 tháng tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật.
* Anh Đặng Anh Nh là bị đơn trình bày: Chị D ly hôn, anh đồng ý vì sống chung không hợp tính. Về con chung: Anh đồng ý để 01 người con chung là cháu Nguyễn Thành D cho Chị D trực tiếp nuôi, anh cấp dưỡng mỗi tháng 750.000 đồng. Về tài sản chung: 10 chỉ vàng cưới vợ chồng bán để xây nhà tiền chế, đồng ý theo yêu cầu của Chị D nhưng xin giao bằng tiền là 26.500.000 đồng trong thời hạn 06 tháng. Về nợ chung không có.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu trình tự, thủ tục tố tụng: Căn cứ vào khoản 4 Điều 27 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; các điều 21, 22, 26, 35, 46, 48, 49, 51, 63, 68, 70, 71, 72, 73, 92, 96, 97 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án và đương sự tuân theo quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị D là được ly hôn với anh N; về con chung giao cháu D cho Chị D trực tiếp nuôi, anh N phải phải cấp dưỡng mỗi tháng 750.000 đồng; về tài sản chung buộc anh N có nghĩa vụ giao lại cho Chị D số tiền 26.500.000 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật; về nợ chung không có; về án phí áp dụng Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH thì đương sự chịu theo quy định.