Bản án số 341/2021/DS-ST ngày 03/08/2021 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Số bản án: 341/2021/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 03/08/2021
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Vào năm 2011, bà Nguyễn Thị T có ký hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê với Công ty cổ phần cà phê T (Trước đây là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê T) số 1113/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011. Theo hợp đồng thì: Bà T đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1990 của Công ty có diện tích 9.077m2, diện tích bờ lô 1.381m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 26/3, thửa đất số 11, tờ bản đồ số 10, địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là: 44.809.588đ; Giá trị vườn cây còn lại: 26.729.075đ. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 06 năm, tính từ ngày ký hợp đồng. Nếu bên quản lý tốt đất đai, vườn cây, luôn hoàn thành tốt nghĩa vụ với bên A và có nhu cầu tiếp tục hợp đồng thì được ưu tiên xem xét ký hợp đồng giao khoán tiếp. Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017 - 2018, Bà T đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của Công ty và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo hợp đồng giao khoán vườn cây đã ký với Công ty. Tuy nhiên, đến năm 2018 thì bà T phát hiện Công ty có sự gian lận, cụ thể: Bà T phát hiện Công ty đã gian lận chi phí nhân công cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 86.954.753,2đ (Bình quân một năm Công ty gian lận là 12.422.107,6đ/năm); Công ty đã gian lận sản phẩm cà phê quả tươi làm thành cà phê quy nhân cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 3.038kg cà phê quả tươi, giá tiền: 8.000đ/kg, thành tiền là 24.304.000đ (Bình quân một năm là 434kg, giá tiền 8.000đ/kg, thành tiền là 3.472.000đ/năm); Công ty đã gian lận tiền thủy lợi phí khấu hao kênh mương cho diện tích 01ha (từ năm 1998-2018) mà Công ty không trả cho bà phần 51% lẽ ra Công ty phải chịu với số tiền là 5.100.000đ đồng (Bình quân một năm là 255.000đ/năm).
Theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị T thì bà yêu cầu Công ty cổ phần cà phê T phải trả cho bà các khoản sau: Chi phí nhân công cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 86.954.753,2đ, số cà phê quả tươi làm thành cà phê quy nhân cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 24.304.000đ và chi phí thủy lợi phí khấu hao kênh mương cho diện tích 01ha (từ năm 1998 – 2018) là 5.100.000đ. Tổng số tiền là 116.358.753,2đ.
Quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị T rút một phần nội dung yêu cầu khởi kiện đối với các yêu cầu là: Buộc Công ty trả lại chi phí đã gian lận trong tính toán chi phí nhân công, buộc Công ty trả lại số cà phê quả tươi đã gian lận và buộc Công ty trả lại tiền thủy lợi phí khấu hao kênh mương từ năm 1998 đến năm 2010 và năm 2018, với tổng số tiền là 114.738.508,7đ. Đối với yêu cầu Công ty cổ phần cà phê T trả cho bà tiền khấu hao kênh mương thì Bà T chỉ yêu cầu Công ty trả cho bà tiền khấu hao kênh mương trong 07 năm (từ năm 2011 đến năm 2017) cho diện tích 01ha với số tiền cụ thể như sau: 255.000đ x 07 năm x 0,9077ha = 1.620.244,5đ.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 341/2021/DS-ST ngày 03/08/2021 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Số bản án: 341/2021/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 03/08/2021
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Vào năm 2011, bà Nguyễn Thị T có ký hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê với Công ty cổ phần cà phê T (Trước đây là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê T) số 1113/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011. Theo hợp đồng thì: Bà T đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1990 của Công ty có diện tích 9.077m2, diện tích bờ lô 1.381m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 26/3, thửa đất số 11, tờ bản đồ số 10, địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là: 44.809.588đ; Giá trị vườn cây còn lại: 26.729.075đ. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 06 năm, tính từ ngày ký hợp đồng. Nếu bên quản lý tốt đất đai, vườn cây, luôn hoàn thành tốt nghĩa vụ với bên A và có nhu cầu tiếp tục hợp đồng thì được ưu tiên xem xét ký hợp đồng giao khoán tiếp. Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017 - 2018, Bà T đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của Công ty và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo hợp đồng giao khoán vườn cây đã ký với Công ty. Tuy nhiên, đến năm 2018 thì bà T phát hiện Công ty có sự gian lận, cụ thể: Bà T phát hiện Công ty đã gian lận chi phí nhân công cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 86.954.753,2đ (Bình quân một năm Công ty gian lận là 12.422.107,6đ/năm); Công ty đã gian lận sản phẩm cà phê quả tươi làm thành cà phê quy nhân cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 3.038kg cà phê quả tươi, giá tiền: 8.000đ/kg, thành tiền là 24.304.000đ (Bình quân một năm là 434kg, giá tiền 8.000đ/kg, thành tiền là 3.472.000đ/năm); Công ty đã gian lận tiền thủy lợi phí khấu hao kênh mương cho diện tích 01ha (từ năm 1998-2018) mà Công ty không trả cho bà phần 51% lẽ ra Công ty phải chịu với số tiền là 5.100.000đ đồng (Bình quân một năm là 255.000đ/năm).
Theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị T thì bà yêu cầu Công ty cổ phần cà phê T phải trả cho bà các khoản sau: Chi phí nhân công cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 86.954.753,2đ, số cà phê quả tươi làm thành cà phê quy nhân cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 24.304.000đ và chi phí thủy lợi phí khấu hao kênh mương cho diện tích 01ha (từ năm 1998 – 2018) là 5.100.000đ. Tổng số tiền là 116.358.753,2đ.
Quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị T rút một phần nội dung yêu cầu khởi kiện đối với các yêu cầu là: Buộc Công ty trả lại chi phí đã gian lận trong tính toán chi phí nhân công, buộc Công ty trả lại số cà phê quả tươi đã gian lận và buộc Công ty trả lại tiền thủy lợi phí khấu hao kênh mương từ năm 1998 đến năm 2010 và năm 2018, với tổng số tiền là 114.738.508,7đ. Đối với yêu cầu Công ty cổ phần cà phê T trả cho bà tiền khấu hao kênh mương thì Bà T chỉ yêu cầu Công ty trả cho bà tiền khấu hao kênh mương trong 07 năm (từ năm 2011 đến năm 2017) cho diện tích 01ha với số tiền cụ thể như sau: 255.000đ x 07 năm x 0,9077ha = 1.620.244,5đ.