Hệ thống pháp luật

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 34/2024/HS-PT Ngày 13-6-2024

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

  • Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Khắc Chiên

    Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hà G, bà Điêu Thị Bích Lượt

  • Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Long - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ.

  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia phiên tòa: Bà Hà Thị Vân Anh - Kiểm sát viên.

Ngày 13 tháng 6 năm 2024 tại Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 29/2024/TLPT-HS ngày 01 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo Nguyễn Hồng M do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 174/2023/HSST ngày 21/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Hồng M - sinh năm 1978 tại thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Nơi cư trú: Khu H, phường G, thành phố V, tỉnh Phú Thọ; chỗ ở hiện nay: Tổ 17, khu Đ, phường T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quang Đ - sinh năm 1952; con bà Lê Thị T - sinh năm 1950; vợ: Hoàng Lan A - sinh năm 1990; con: Có 02 con (Con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2016); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2022/HSST ngày 23/3/2022 của Toà án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xử phạt Nguyễn Hồng M 15 tháng tù, cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; tạm giữ, tạm giam: Tạm giữ từ ngày 18/8/2023 đến ngày 23/8/2023 thì áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện bị cáo tại ngoại tại phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra còn có 02 bị cáo (Nguyễn Đình G, Lương Anh T) không có kháng cáo, không bị kháng cáo và không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 15 phút ngày 18/8/2023, tại nơi ở của Nguyễn Đình G - sinh

năm 1990 ở khu H, phường T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, tổ công tác của Phòng cảnh sát hình sự, Công an tỉnh Phú Thọ kiểm tra, phát hiện bắt quả tang G có hành vi nhận số lô, số đề qua tin nhắn điện thoại di động của Nguyễn Hồng M - sinh năm 1978 ở phố Đ, phường T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, đã thu giữ chiếc điện thoại di động của G.

Hồi 18 giờ 15 phút ngày 18/8/2023 tại nơi ở của Nguyễn Hồng M ở phố Đ, phường T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, tổ công tác khác của phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Phú Thọ cũng bắt quả tang M đang có hành vi nhắn tin số lô, số đề cho Nguyễn Đình G, đã thu giữ chiếc điện thoại di động của M.

Cùng ngày 18/8/2023, sau khi biết G bị phát hiện thì Lương Anh T - sinh năm 1988 ở tổ 25B, khu Hà Liễu, phường Gia Cẩm, thành phố Việt Trì đến Cơ quan cảnh sát điều tra đầu thú về hành vi nhận số lô, số đề của G qua tin nhắn điện thoại và tự giao nộp chiếc điện thoại di động, trong điện thoại đang lưu giữ nội dung tin nhắn đã nhận số lô, số đề của G.

Quá trình điều tra xác định, để có tiền chi tiêu cá nhân nên G thống nhất với M và Tùng là đánh bạc với nhau dưới hình thức gửi tin nhắn mua số lô, số đề qua điện thoại di động, một điểm lô tính 23.000 đồng, nếu trúng thưởng sẽ được hưởng 80.000 đồng/1 điểm lô; với số đề nếu trúng đề sẽ được hưởng gấp 70 lần số tiền đã đánh. Việc xác định trúng số lô, số đề được căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày để xác định thắng, thua và thanh toán tiền. Số đề trúng thưởng được tính là trùng với 2 số cuối của giải đặc biệt, số lô trúng thưởng được tính là trùng với 2 số cuối của tất cả các giải kết quả xổ số. Sau khi có kết quả xổ số thì người chơi sẽ tự đối chiếu, thanh toán thắng thua. Theo quy ước này, G, M và Tùng thực hiện hành vi đánh bạc với nhau như đã nêu trên. Trên thực tế, khi thanh toán thì người chơi tự trích % cho nhau để khuyến khích chơi, theo quy ước và thống nhất ban đầu, G, M và Tùng chưa thanh toán tiền cho nhau nên số tiền đánh bạc phải chịu trách nhiệm hình sự là số tiền đã thỏa thuận, thống nhất.

Ngày 18/8/2023, Nguyễn Hồng M sử dụng điện thoại Xiaomi Redmi note

7 lắp sim có số thuê bao 0815961566 nhắn 7 tin nhắn đến số thuê bao 0969098483 đang lắp trong chiếc điện thoại Samsung Galaxy A5 của Nguyễn Đình G với nội dung mua các số lô, số đề của G với số tiền tương ứng là

18.750.000 đồng.

Ngày 18/8/2023, Nguyễn Đình G còn có hành vi đánh bạc với Lương Anh

T. G sử dụng điện thoại lắp sim có số thuê bao 0969098483 nhắn đến điện thoại của Lương Anh T có số thuê bao 0983557965, tổng số 11 tin nhắn số lô, số đề tương ứng với số tiền 81.561.000 đồng.

Tổng số tiền G đánh bạc với Tùng và M là 100.311.000 đồng. Số tiền đánh bạc giữa G và Tùng, giữa G và M chưa thanh toán cho nhau.

Cơ quan cảnh sát điều tra đã thu giữ của Nguyễn Đình G 01 điện thoại Samsung Galaxy A51 màu trắng, imeil: 355036111106675, imei2: 355037111106673, lắp sim số thuê bao 0969098483; Nguyễn Hồng M 01 điện thoại Xiaomi Redmi note 7 màu hồng, imeil: 866542044020497, imei 2:

866542044130494, lắp sim số thuê bao 0815961566; Lương Anh T 01 điện thoại di động Samsung Note 10 lite màu bạc, số imeil: 355045114505981, imei 2: 355046114505989, lắp sim số thuê bao 0983557965.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 174/2023/HSST ngày 21 tháng 12 năm 2023 của Toà án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38;

khoản 2 Điều 56; khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hồng M phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng M 09 (Chín) tháng tù. Tổng hợp với 15 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” của bản án hình sự sơ thẩm số 28/2022/HSST ngày 23/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, bị cáo phải chấp hành hình phạt của hai bản án là 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Bị cáo được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 18/8/2023 đến ngày 23/8/2023. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Ngoài ra bản án hình sự sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với các bị cáo không có kháng cáo, kháng nghị; hình phạt bổ sung; xử lý vật chứng; án phí và một số nội dung khác.

Ngày 27 tháng 12 năm 2023, bị cáo Nguyễn Hồng M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Lý do kháng cáo là mức hình phạt 09 tháng tù là cao.

Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Hồng M đã nộp số tiền sử dụng đánh bạc theo quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số 174/2023/HS-ST ngày 21/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không thay đổi, bổ sung đơn kháng cáo, không rút kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hồng M. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 174/2023/HSST ngày 21/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Hồng M và xử lý vật chứng.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; khoản

2 Điều 56 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng M 06 (Sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp với 15 tháng tù, cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” là thời gian chưa chấp hành của bản án hình sự sơ thẩm số 28/2022/HSST ngày 23/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Bị cáo được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 18/8/2023 đến ngày 23/8/2023. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Buộc bị cáo Nguyễn Hồng M phải nộp 18.750.000 đồng (Mười tám triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) là số tiền sử dụng đánh bạc để sung quỹ Nhà nước. Xác nhận bị cáo đã nộp tiền xong theo biên lai thu tiền số 0004719 ngày 12/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì.

Án phí: Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Hồng M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

  1. Về tố tụng: Khi Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì xét xử và tuyên án thì bị cáo Nguyễn Hồng M có mặt. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Nguyễn Hồng M đã kháng cáo bản án. Căn cứ vào khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Hồng M kháng cáo đúng thời hạn nên được xem xét, giải quyết.

  2. Về hành vi thực hiện của bị cáo: Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Hồng M khai nhận hành vi thực hiện phạm tội như sau:

    Hồi 18 giờ 15 phút ngày 18/8/2023 tại nhà ở của Nguyễn Hồng M ở khu Đ, phường T, thành phố V, Nguyễn Hồng M sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi Note7 có lắp sim số thuê bao 0815961566 nhắn tin đến số điện thoại 0969098483 của Nguyễn Đình G với nội dung là mua số lô, số đề của Nguyễn Đình G, tổng số tiền Nguyễn Hồng M mua số lô, số đề của Nguyễn Đình G là 18.750.000 đồng thì bị tổ công tác của Phòng cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ bắt quả tang, đã thu giữa chiếc điện thoại di động của Nguyễn Hồng M, phần tin nhắn trong điện thoại có nội dung gửi cho Nguyễn Đình G các số lô, số đề.

    Tại bản án hình sự sơ thẩm số 174/2023/HSST ngày 21/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Hồng M phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì đã xét xử đúng người, đúng tội nên bị cáo không kháng cáo về tội danh.

  3. Về nội dung kháng cáo: Bản án hình sự sơ thẩm số 174/2023/HSST ngày 21/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, xử phạt Nguyễn Hồng M 09 tháng tù. Bị cáo Nguyễn Hồng M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Nguyễn Hồng M thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bà Lê Thị Thêm là mẹ đẻ của bị cáo được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo đang chấp hành 15 tháng tù cho hưởng án treo của bản

    án hình sự sơ thẩm số 28/2022/HS-ST ngày 23/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội nên nhân thân của bị cáo là xấu. Khi quyết định hình phạt thì Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào các quy định của pháp luật, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, xử phạt bị cáo 09 tháng tù là phù hợp. Tại bản án hình sự sơ thẩm đã quyết định buộc bị cáo phải nộp 18.750.000 đồng là số tiền bị cáo đã sử dụng đánh bạc để sung quỹ Nhà nước, trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì bị cáo đã nộp số tiền này tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đây là tình tiết mới để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Vì vậy, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 174/2023/HSST ngày 21/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Hồng M.

    Bị cáo đang chấp hành 15 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng của bản án hình sự sơ thẩm số 28/2022/HS-ST ngày 23/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội nên tổng hợp hình phạt của hai bản án để bị cáo chấp hành hình phạt chung.

  4. Về xử lý vật chứng: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 174/2023/HSST ngày 21/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì đã quyết định buộc bị cáo nộp 18.750.000 đồng để sung quỹ Nhà nước. Xét thấy bị cáo đã nộp số tiền này tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm nên đây là tình tiết mới tại cấp phúc thẩm. Vì vậy, xác nhận bị cáo đã nộp tiền xong.

  5. Án phí hình sự phúc thẩm: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hồng M được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

  6. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 174/2023/HSST ngày 21/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

  7. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ về giải quyết vụ án là phù hợp nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

  1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

    Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hồng M. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 174/2023/HSST ngày 21/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Hồng M và xử lý vật chứng.

  2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38;

    khoản 2 Điều 56 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

    Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng M 06 (Sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp với 15 tháng tù, cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” là thời gian chưa chấp hành của bản án hình sự sơ thẩm số 28/2022/HSST ngày 23/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Bị cáo được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 18/8/2023 đến ngày 23/8/2023. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

  3. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

    Buộc bị cáo Nguyễn Hồng M phải nộp 18.750.000 đồng (Mười tám triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) là số tiền sử dụng đánh bạc để sung quỹ Nhà nước. Xác nhận bị cáo đã nộp tiền xong theo biên lai thu tiền số 0004719 ngày 12/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì.

  4. Án phí: Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Hồng M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

  5. Các quyết khác của bản án hình sự sơ thẩm số 174/2023/HSST ngày 21/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

  6. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

  • VKSND tỉnh Phú Thọ;

  • Sở Tư pháp tỉnh Phú Thọ;

  • TAND thành phố Việt Trì;

  • VKSND thành phố Việt Trì;

  • Công an thành phố Việt Trì;

  • Chi cục THADS thành phố Việt Trì;

  • Bị cáo;

  • Lưu HS, VP

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

(Đã ký)

Nguyễn Khắc Chiên

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 34/2024/HS-PT ngày 13/06/2024 của TAND tỉnh Phú Thọ

  • Số bản án: 34/2024/HS-PT
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Phúc thẩm
  • Ngày ban hành: 13/06/2024
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND tỉnh Phú Thọ
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt
Tải về bản án