Bản án số 333/2021/DS-ST ngày 30/07/2021 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Số bản án: 333/2021/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 30/07/2021
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Xem xét nội dung khởi kiện của bà Võ Thị T: Trong quá trình làm việc tại Tòa án, nguyên đơn bà T khai: Công ty đã thu tiền khấu hao kênh mương phần 51% của Công ty từ bà mà lẽ ra phần 51% này Công ty phải chịu theo Bảng phương án khoán. Và căn cứ vào diện tích nhận khoán của bà thì từ năm 2011-2017, Công ty đã thu tiền khấu hao kênh mương của bà phần 51% của Công ty từ bà là: 255.000đ/ha x 1,0100ha x 51% x 07 năm = 1.802.850đ . Sau đó, Công ty đã tiến hành chi trả số tiền Công ty đã thu sai cho bà nhưng bà chưa nhận. Và bà T thừa nhận bà thấy số tiền chi trả là chưa đúng và không đủ nên vẫn khởi kiện để yêu cầu Công ty tiếp tục trả tiền khấu hao kênh mương này. Tuy nhiên, Tại đơn khởi kiện và quá trình làm việc tại Tòa án bà T chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty trả cho bà tiền thủy lợi phí khấu hao kênh mương cho diện tích 01ha trong 07 năm (Từ năm 2011 – 2017) với số tiền là 1.785.000đ. Đối với diện tích dôi dư còn lại bà T không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 333/2021/DS-ST ngày 30/07/2021 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Số bản án: 333/2021/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 30/07/2021
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Xem xét nội dung khởi kiện của bà Võ Thị T: Trong quá trình làm việc tại Tòa án, nguyên đơn bà T khai: Công ty đã thu tiền khấu hao kênh mương phần 51% của Công ty từ bà mà lẽ ra phần 51% này Công ty phải chịu theo Bảng phương án khoán. Và căn cứ vào diện tích nhận khoán của bà thì từ năm 2011-2017, Công ty đã thu tiền khấu hao kênh mương của bà phần 51% của Công ty từ bà là: 255.000đ/ha x 1,0100ha x 51% x 07 năm = 1.802.850đ . Sau đó, Công ty đã tiến hành chi trả số tiền Công ty đã thu sai cho bà nhưng bà chưa nhận. Và bà T thừa nhận bà thấy số tiền chi trả là chưa đúng và không đủ nên vẫn khởi kiện để yêu cầu Công ty tiếp tục trả tiền khấu hao kênh mương này. Tuy nhiên, Tại đơn khởi kiện và quá trình làm việc tại Tòa án bà T chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty trả cho bà tiền thủy lợi phí khấu hao kênh mương cho diện tích 01ha trong 07 năm (Từ năm 2011 – 2017) với số tiền là 1.785.000đ. Đối với diện tích dôi dư còn lại bà T không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.