Bản án số 33/2023/DS-PT ngày 15/05/2023 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số bản án: 33/2023/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 15/05/2023
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hải Dương
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Năm 1993, hộ gia đình bà N được Nhà nước giao đất nông nghiệp, tổng diện tích là 2016m2. Năm 1998, do cả gia đình bà đi làm kinh tế, sinh sống trong miền Nam, không còn nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp, các con bà còn nhỏ nên bà và chồng ông T đã thống nhất để cho gia đình ông PH Văn C sử dụng 03 sào đất nông nghiệp, với thời hạn 5 năm, có nhận tiền. Năm 2003 (hết hạn 5 năm), gia đình ông C đã trả bà N 03 sào ruộng. Do gia đình bà vẫn làm ăn kinh tế trong miền Nam, không có nhu cầu sử dụng nên bà N đã đến gặp ông K, bà Đ để thỏa thuận, thống nhất để ông K bà Đ sử dụng 03 sào đất nông nghiệp của bà và phải trả bà một khoản tiền. Các lời khai của bà N xác định chỉ cho mượn ruộng, nhưng có việc nhận 2.300.000đ từ ông K, bà Đ để chi phí cho việc làm ăn, phát triển kinh tế gia đình, tiền đi lại tàu xe từ Bắc vào Nam. Ông T là chồng bà N có biết việc nhận tiền và chi tiêu chung trong gia đình. Bà N xác định lý do nhận tiền là lúc đó kinh tế gia đình khó khăn nên bà yêu cầu ông K, bà Luận phải trả bà 800.000 đồng/sào, 03 sào là 2.400.000 đồng, bà bớt 100.000 đồng, ông K bà Đ chỉ phải trả 2.300.000 đồng, khi nào bà về thì ông K, bà Đ trả ruộng bà; bà trả lại tiền cho ông K, bà Đ. Tuy nhiên, ông K và gia đình xác định bà N đã chuyển nhượng (bán) mãi mãi, hai bên đã giao nhận tiền và đất.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 33/2023/DS-PT ngày 15/05/2023 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số bản án: 33/2023/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 15/05/2023
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hải Dương
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Năm 1993, hộ gia đình bà N được Nhà nước giao đất nông nghiệp, tổng diện tích là 2016m2. Năm 1998, do cả gia đình bà đi làm kinh tế, sinh sống trong miền Nam, không còn nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp, các con bà còn nhỏ nên bà và chồng ông T đã thống nhất để cho gia đình ông PH Văn C sử dụng 03 sào đất nông nghiệp, với thời hạn 5 năm, có nhận tiền. Năm 2003 (hết hạn 5 năm), gia đình ông C đã trả bà N 03 sào ruộng. Do gia đình bà vẫn làm ăn kinh tế trong miền Nam, không có nhu cầu sử dụng nên bà N đã đến gặp ông K, bà Đ để thỏa thuận, thống nhất để ông K bà Đ sử dụng 03 sào đất nông nghiệp của bà và phải trả bà một khoản tiền. Các lời khai của bà N xác định chỉ cho mượn ruộng, nhưng có việc nhận 2.300.000đ từ ông K, bà Đ để chi phí cho việc làm ăn, phát triển kinh tế gia đình, tiền đi lại tàu xe từ Bắc vào Nam. Ông T là chồng bà N có biết việc nhận tiền và chi tiêu chung trong gia đình. Bà N xác định lý do nhận tiền là lúc đó kinh tế gia đình khó khăn nên bà yêu cầu ông K, bà Luận phải trả bà 800.000 đồng/sào, 03 sào là 2.400.000 đồng, bà bớt 100.000 đồng, ông K bà Đ chỉ phải trả 2.300.000 đồng, khi nào bà về thì ông K, bà Đ trả ruộng bà; bà trả lại tiền cho ông K, bà Đ. Tuy nhiên, ông K và gia đình xác định bà N đã chuyển nhượng (bán) mãi mãi, hai bên đã giao nhận tiền và đất.