Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH

Bản án số: 32/2022/HS-ST Ngày 23 - 11 - 2022

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH

  • Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm cóThẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Tô Văn Thịnh Các Hội thẩm nhân dân: Bà Trần Thị Kim Dung

    Ông Đinh Mạnh Huy

  • Thư ký phiên tòa: Bà Trịnh Thị Hoài Thu - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình

  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình tham gia phiên tòa: Bà Đoàn Thị Thúy Ngân - Kiểm sát viên.

    Ngày 23 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

    Lê Minh N, sinh năm 1999 tại huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện N, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hoá 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Trung V và bà Vũ Thị L; chưa có vợ; tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HS-ST ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình xử phạt Lê Minh N 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/5/2022, chấp hành nộp xong tiền án phí hình sự sơ thẩm ngày 20/10/2020; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 22/9/2022 đến ngày 28/9/2022 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay (có mặt).

  • Người làm chứng: Anh Nguyễn Xuân T (vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Minh N là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 14 giờ ngày 22/9/2022, Lê Minh N đi bộ từ nhà ra khu vực đường trục thôn T, xã B, huyện N, tỉnh Ninh Bình

thuê xe ôm của một người đàn ông không quen biết đến thị trấn M, huyện G, tỉnh Ninh Bình với mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đến khu vực cách Bưu điện thị trấn M, huyện G, tỉnh Ninh Bình khoảng 50 m, N xuống xe đi bộ về phía Bưu điện và gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ. N đến gần và hỏi người đàn ông này“Anh có ma túy Heroine không để cho em

1.000.000 đồng?”, người đàn ông này nói với N “Đưa tiền đây”. N lấy từ túi quần ra đưa cho người đàn ông này số tiền 1.000.000 đồng (gồm 02 tờ tiền mỗi tờ có mệnh giá 500.000 đồng). Người đàn ông cầm tiền rồi đưa lại cho N 01 gói ma túy to bằng đầu ngón tay cái, gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng trong có chất bột dạng cục màu trắng. N cầm gói ma túy trên tay phải và đi nhờ xe máy của một người đàn ông không quen biết đến khu vực đê H thuộc thôn .. L, xã T, huyện G, tỉnh Ninh Bình xuống xe đi bộ. Đến khoảng 15 giờ 00 phút cùng ngày khi N đang đi bộ tại khu vực trên để tìm nơi sử dụng ma túy thì bị tổ công tác thuộc Phòng cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an tỉnh Ninh Bình phối hợp với Công an xã T, huyện G, tỉnh Ninh Bình phát hiện yêu cầu kiểm tra. Biết không thể che giấu hành vi phạm tội của mình N đã tự giác khai nhận trên tay phải N đang cầm 01 gói ma túy loại Heroine và giao nộp cho tổ công tác. Tại chỗ tổ công tác đã tiến hành thu giữ của N 01 gói giấy bạc màu trắng niêm phong theo quy định đồng thời đưa N về trụ sở Công an xã T, huyện G, tỉnh Ninh Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Minh N tại thôn T, xã B, huyện N, tỉnh Ninh Bình không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì.

Kết quả mở niêm phong, cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Lê Minh N. Chất bột dạng cục màu trắng có khối lượng là 1, 7413 gam. Sau khi cân số chất bột dạng cục màu trắng này được bỏ trong 01 túi nilon màu trắng niêm phong trong 01 phong bì dán kín, ký hiệu M.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình đã gửi những mẫu vật trên đến Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình để trưng cầu giám định về loại ma túy và khối lượng ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 703/KLGĐ-PC09-MT ngày 28/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: “Mẫu chất bột dạng cục

Quá trình điều tra Lê Minh N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của

mình.

Tại bản cáo trạng số 15/CT-VKS-P1 ngày 07 tháng 11 năm 2022 Viện kiểm

sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị can Lê Minh N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Minh N thừa nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Minh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Minh N từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 22/9/2022. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật trên mặt phong bì ghi mẫu vật hoàn trả gồm M = 1, 5942 gam là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ gói niêm phong. 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật trên mặt phong bì ghi vỏ phong bì ký hiệu Q và 01 mảnh giấy bạc màu trắng ký hiệu V.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng; Biên bản bắt người phạm tội quả tang của Phòng cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an tỉnh Ninh Bình lập ngày 22/9/2022; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong, cân xác định khối lượng và giao nhận đối tượng giám định của Lê Minh N; biên bản ghi hình có âm thanh; Kết luận giám định số 703/KLGĐ-PC09-MT ngày 28/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: “Mẫu chấtcùng các vật chứng, tài liệu khác có trong hồ sơ đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 22/9/2022 tại khu vực đê H thuộc thôn …. L, xã T, huyện G, tỉnh Ninh Bình, Lê Minh N có hành vi cất giấu trái phép 1,7413 gam ma túy loại Heroine với mục đích

sử dụng cho bản thân. Khi bị cáo đang đi tìm nơi để sử dụng thì bị tổ công tác thuộc Phòng cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an tỉnh Ninh Bình phối hợp với Công an xã T, huyện G, tỉnh Ninh Bình phát hiện bắt giữ. Hành vi của Lê Minh N đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp “Heroine,quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;

a) ........................................

b)........................................

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

....................

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Lê Minh N với tội danh và điều luật đã viện dẫn như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật được chấp nhận.

  1. Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Minh N là nghiêm trọng đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, tác động rất xấu đến trật tự trị an và an toàn xã hội. Ma túy là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng đến sức khỏe, trí tuệ và sự phát triển bình thường của giống nòi, làm khánh kiệt về kinh tế của người sử dụng ma túy, gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân, do đó cần phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.

    Bị cáo Lê Minh N đang có tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội mới thuộc tội phạm nghiêm trọng nên lần phạm tội này thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự được xem xét áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.

    Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử lý nghiêm bằng hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời góp phần phòng ngừa chung cho xã hội.

    Do bị cáo là người nghiện ma túy đang ở chung với gia đình không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

  2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định cùng với các vỏ gói niêm phong, cụ thể:

    • 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật trên mặt phong bì ghi: Mẫu vật hoàn trả gồm M = 1, 5942 gam là ma túy loại Heroine. Toàn bộ vỏ gói niêm phong.

    • 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật trên mặt phong bì ghi: Vỏ phong bì ký hiệu Q và 01 mảnh giấy bạc màu trắng ký hiệu V.

  3. Đối với người đàn ông lái xe ôm chở Lê Minh N đi mua ma túy và người đàn ông cho Ngọc đi nhờ xe sau khi N đã mua được ma túy. Quá trình điều tra không xác định được họ tên và địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

    Về nguồn gốc ma túy: Lê Minh N khai nhận số ma túy N mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực Bưu điện thị trấn M, huyện G, tỉnh Ninh Bình. Quá trình điều tra không xác định được họ tên và địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

  4. Về quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

  5. Về án phí: Bị cáo bị tuyên là có tội nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

  1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Minh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

    Xử phạt bị cáo Lê Minh N 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 22/9/2022.

  2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy:

    • 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật trên mặt phong bì ghi: Số 703/KL-KTHS-MT vụ Lê Minh N, sinh năm 1999, cất giấu TPCMT xảy ra

      ngày 22/9/2022, tại xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình. Mẫu vật hoàn trả gồm M = 1,5942 gam là ma túy loại Heroine. Toàn bộ vỏ gói niêm phong.

    • 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật trên mặt phong bì ghi: Vỏ phong bì ký hiệu Q và 01 mảnh giấy bạc màu trắng ký hiệu V.

      (Chi tiết như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/11/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình).

  3. Án phí: Bị cáo Lê Minh N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nơi nhận:

  • TAND cấp cao: 01 bản;

  • VKSND cấp cao: 01 bản;

  • VKSND tỉnh Ninh Bình: 03 bản;

  • Phòng Kiểm tra THA: 04 bản;

  • Phòng PC04 Công an tỉnh: 01 bản;

  • Phòng PC10 Công an tỉnh: 01 bản;

  • Phòng HS&NV CA tỉnh: 01 bản;

  • Bị cáo: 01 bản;

  • Trại tạm giam: 01 bản;

  • Sở tư pháp tỉnh Ninh Bình: 01 bản;

  • Lưu hồ sơ: 02 bản;

  • Lưu tòa và HCTP: 02 bản;

(Thông báo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú).

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa

Tô Văn Thịnh

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 32/2022/HS-ST ngày 23/11/2022 của TAND tỉnh Ninh Bình

  • Số bản án: 32/2022/HS-ST
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 23/11/2022
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND tỉnh Ninh Bình
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 22/9/2022 tại khu vực đê H thuộc thôn …. L, xã T, huyện G, tỉnh Ninh Bình, Lê Minh N có hành vi cất giấu trái phép 1,7413 gam ma túy loại Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân. Khi bị cáo đang đi tìm nơi để sử dụng thì bị tổ công tác thuộc Phòng cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an tỉnh Ninh Bình phối hợp với Công an xã T, huyện G, tỉnh Ninh Bình phát hiện bắt giữ. Hành vi của Lê Minh N đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp “Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tải về bản án