TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM Bản án số: 296/2022/HS-PT Ngày: 28-12-2022 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Các Thẩm phán:
Ông Phạm Quốc Bảo.
Ông Nguyễn Quốc Thiện; Ông Nguyễn Hữu Thịnh.
Thư ký phiên tòa: Ông Lê Hoàng Tiến - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Hữu Quân - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 269/2022/TLPT-HS ngày 07 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn M, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2022/HS-ST ngày 19 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn M, sinh ngày 01/8/1999, tại: huyện D, tỉnh Quảng Nam; nơi cư trú: thôn S, xã D, huyện D, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị H; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên Nguyễn Văn M lên mạng Internet tìm hiểu các dịch vụ Facebook như: tăng tương tác, tăng like, bảo mật tích xanh, lên tích xanh cho các tài khoản Facebook. Sau đó, M chủ động liên hệ đến các tài khoản Facebook đã có tích xanh hoặc tài khoản đã có uy tín (nhiều lượtđể lừa chủ tài khoản Facebook mua các gói bảo mật, lên tích xanh, đồng thời dụ dỗ chủ tài khoản Facebook cung cấp thông tin tài khoản, gồm: tên đăng nhập, mật khẩu, số điện thoại đăng ký Facebook, thông tin đăng ký và giấy tờ tùy thân, như: chứng minh nhân dân, căn cước công dân, bằng lái xe và những
giấy tờ khác. Mục đích để lừa đảo chiếm đoạt tài sản và chiếm đoạt tài khoản Facebook, vì tài khoản Facebook nếu chiếm đoạt thành công có thể rao bán được từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng tùy từng loại tài khoản.
Với cách thức như trên, trong khoảng thời gian từ tháng 3/2021 đến tháng 10/2021, Nguyễn Văn M đã thực hiện 02 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác và 01 vụ cưỡng đoạt tài sản, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: ngày 31/3/2021, bà Nguyễn Thị Huỳnh N có liên hệ đến Facebook Nguyễn Văn M để làm dịch vụ Facebook lên tick xanh cho Fanpage “Viện thẩm mỹ quốc tế m” thuộc tài khoản Facebook “Nguyễn Huỳnh N”. Do tin tưởng nên bà N đồng ý sử dụng dịch vụ lên tick xanh cho Fanpage “Viện thẩm mỹ quốc tế m” với giá 20.000.000 đồng. Để lên tick xanh, M yêu cầu bà N cung cấp tài khoản, mật khẩu tài khoản Facebook “Nguyễn Huỳnh N” và email liên kết đến tài khoản Facebook “Nguyễn Huỳnh N” để quản lý bảo mật cho M. Sau khi có được các thông tin trên, M tiến hành đổi mật khẩu các tài khoản của bà N và chiếm quyền truy cập, mục đích yêu cầu bà N chuyển tiền để chiếm đoạt, vì thực tế M không có khả năng lên được tick xanh. Bà N liên hệ M yêu cầu trả lại các tài khoản, nếu không sẽ báo Công an. M đồng ý trả lại với điều kiện để M lên tick xanh với giá 20.000.000 đồng; do tin tưởng nên bà N chuyển khoản đến tài khoản MBBank số 0783414444 của M tổng cộng 04 lần với số tiền 19.000.000 đồng. Trong ngày 02/4/2021, M tiếp tục yêu cầu bà N chuyển thêm 5.000.000 đồng nhưng bà N không đồng ý. M liên tục nhắn tin qua tài khoản Zalo của bà N để đe dọa, uy hiếp buộc phải chuyển tiền, nếu không sẽ xóa tài khoản vĩnh viễn, đồng thời sẽ đăng clip sex lên Fanpage “Viện thẩm mỹ quốc tế m” để phá chuyện làm ăn, kinh doanh, hạ uy tín, danh dự của bà N. Khi M đe dọa, uy hiếp như vậy, bà N rất sợ hãi, hoảng loạn trước lời đe dọa của M, vì sợ M sẽ làm thật. Đến sáng ngày 03/4/2021, do bà N không chuyển tiền nên M tiếp tục đe dọa, uy hiếp; đồng thời, đăng tải trực tiếp clip sex lên trang Fanpage “Viện thẩm mỹ quốc tế m” và dùng tài khoản Facebook thông tin giả “Nguyễn Mai P” đăng clip sex lên trang Fanpage “Viện thẩm mỹ quốc tế m” làm Fanpage này bị vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng, dẫn đến tài khoản sẽ tạm thời bị khóa và mất tương tác. Sau khi đăng clip sex, M chụp ảnh màn hình gửi qua cho bà N, do quá hoảng sợ nên bà N đã chặn tin nhắn qua Zalo với M. Những ngày sau đó, M liên tiếp dùng nhiều số điện thoại để nhắn tin qua SMS cho bà N với những lời đe dọa, thách thức.
Vụ thứ hai: đầu tháng 10/2021, Nguyễn Văn M sử dụng tài khoản Facebook cá nhân tên “Nguyen Van M” và tài khoản Facebook “Phạm Thị Hồng N” mà M tự đăng ký để nhắn tin đến tài khoản Facebook “Lê Thanh T” của bà Lê Thanh T. M dùng tài khoản Facebook “Phạm Thị Hồng N” đóng giả là nữ, nhắn tin cho tài khoản Facebook của bà T để chào mời các gói dịch vụ Facebook từ Nguyễn Văn M. Sau khi bà T đồng ý làm gói dịch vụ bảo mật tích xanh và tăng tương tác thì M mới dùng tài khoản Facebook “Nguyen Van M” nhắn tin với bà T. Để tạo lòng tin cho bà T, M dùng các website tanglike.org để chạy tăng like bài viết miễn phí cho tài khoản Facebook “Lê Thanh T” và các trang Fanpage thẩm mỹ của bà T. Khi bà T tin tưởng đồng ý làm dịch vụ bảo
mật Facebook, M dùng tài khoản zalo “M Nguyen - chuyên fb và tiktok” đăng ký bằng số điện thoại 0783.414.444 để nhắn tin với bà T và yêu cầu bà T gửi thông tin tài khoản Facebook, gồm: tên đăng nhập, mật khẩu, thẻ căn cước công dân, bằng lái xe, giấy phép kinh doanh của bà T sang cho M. M lấy lý do để làm dịch vụ nhưng thực chất là để chiếm đoạt tài khoản Facebook “Lê Thanh T”kèm các Fanpage thẩm mỹ. Sau khi lấy được thông tin cá nhân từ bà T, M thay đổi thông tin ngày, tháng, năm sinh trên trang Facebook của bà T và đổi mật khẩu tài khoản Facebook, truy cập vào tài khoản để thay đổi số điện thoại đăng ký thông tin gmail từ thông tin của bà T sang số điện thoại 0706.217.xxx và gmail vanmanhduynghia@gmail.com để chiếm quyền truy cập tài khoản Facebook Lê Thanh T các Fanpage thẩm mỹ do tài khoản Facebook “Lê Thanhgiữ quyền quản lý. Lúc này, M yêu cầu bà T chuyển số tiền 7.600.000 đồng cho gói dịch vụ trên vào tài khoản Ngân hàng MBBank tên Nguyễn Văn M số tài khoản 222299639999. Mặc dù, đã nhận được số tiền 7.600.000 đồng từ bà T nhưng M không làm dịch vụ theo thỏa thuận. Cùng lúc đó, bà T nhận được nhiều thông báo trong hộp thư email cá nhân nên biết được M đã chiếm đoạt tài khoản Facebook “Lê Thanh T”, bà T nhắn tin qua tài khoản Zalo với M để M trả lại tài khoản thì M yêu cầu bà T phải chuyển cho M số tiền 20.000.000 đồng vào tài khoản Ngân hàng Techcombank số 0388959511 mang tên Nguyễn Đức V, nhưng bà T không đồng ý.
Ngoài ra, trong tháng 9/2021 Nguyễn Đức V đăng nhập trên mạng xã hội Facebook thấy tài khoản Facebook “Nguyen Van M” có đăng bài chuyên sửa chữa và mở khóa tài khoản Icloud cho điện thoại iPhone, nhưng thực tế M không có khả năng sửa chữa và bẻ khóa điện thoại iPhone được. Lúc này, V nhắn tin liên hệ đến Nguyễn Văn M để nhờ mở khóa Icloud điện thoại iPhone 11 Pro màu xanh đen của V, do V quên tài khoản Icloud nên không thể sử dụng được. Qua trao đổi với M, V tin tưởng M có thể mở khóa Icloud được nên ngày 28/9/2021 V đã gửi chuyển phát nhanh cho M điện thoại iPhone 11 Pro để M bẻ khóa Icloud. Khi nhận được điện thoại iPhone, M nhiều lần yêu cầu V chuyển tiền để trả tiền công sửa điện thoại với tổng số tiền 5.150.000 đồng qua tài khoản MBBank số 0783414444 của M, trong thời gian từ ngày 24/9/2021 đến ngày 15/12/2021. Tuy nhiên, sau khi nhận được tiền của V thì M không thực hiện theo thỏa thuận mà chiếm đoạt luôn điện thoại iPhone. Sau đó, M đem điện thoại iPhone bán cho một người đàn ông không rõ lai lịch trên mạng với giá
3.500.000 đồng.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 17/KLĐG-HĐĐGTS ngày 20/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Duy Xuyên kết luận: 01 điện thoại di động hiệu iPhone 11 Pro màu xanh đen, bộ nhớ 256Gb, đã khóa Icloud tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị 3.500.000 đồng.
Với nội dung vụ án như trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2022/HS- ST ngày 19/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam đã quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 02 (Hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài.
Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 01 (Một)năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 26/8/2022, bị cáo Nguyễn Văn M có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn M về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 và tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật. Đồng thời, đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để làm căn cứ xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 01 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo cung cấp tài liệu thể hiện bị hại bà Nguyễn Thị Huỳnh N có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; tuy nhiên, xét thấy mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn M, giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.
Bị cáo không tranh luận, xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn M có đơn kháng cáo theo đúng quy định tại các Điều 331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên kháng cáo của bị cáo là hợp pháp.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết và xin được giảm nhẹ hình phạt.
Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với kết luận định giá tài sản, lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ được Cơ quan điều tra chứng minh có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở kết luận: mặc dù
không có khả năng thực hiện nhưng trong khoảng thời gian từ tháng 3/2021 đến tháng 10/2021, bị cáo Nguyễn Văn M đã gian dối, đưa ra thông tin không đúng sự thật về các dịch vụ trên mạng xã hội Facebook như: tăng tương tác, tăng like, bảo mật tích xanh, lên tích xanh cho các tài khoản Facebook, cũng như sửa chữa và bẻ khóa Icloud điện thoại iPhone để các bị hại: Lê Thanh T, Nguyễn Thị Huỳnh N và Nguyễn Đức V tin tưởng, chuyển tiền vào tài khoản của bị cáo M, rồi bị cáo chiếm đoạt của các bị hại tổng cộng 35.520.000 đồng (cụ thể: chiếm. Riêng đối với bà Nguyễn Thị Huỳnh N, sau khi chiếm đoạt được tiền, tài khoản Facebook của bà N, bị cáo M còn nhắn tin đe dọa, yêu cầu bà N chuyển tiền, nếu không sẽ đăng clip sex lên trang Fanpage “Viện thẩm mỹ quốc tế m” làm ảnh hưởng đến công việc kinh doanh, uy tín của bà N. Và thực tế, bị cáo M đã đăng clip sex trên trang Fanpage này. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2022/HS-ST ngày 19/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam đã kết án bị cáo Nguyễn Văn M về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 và tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổlà có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn M, thì thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra; đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 02 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 01 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” là có căn cứ pháp luật và không nặng. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo cung cấp tài liệu thể hiện cha của bị cáo là ông Nguyễn Văn H bị khuyết tật và bị hại bà Nguyễn Thị Huỳnh N có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới phát sinh được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm. Tuy nhiên, xét thấy hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt theo như đề nghị của Kiểm sát viên.
Về án phí hình sự phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Văn M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn M, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2022/HS-ST ngày 19 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam về hình phạt.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 02 (Hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Nguyễn(Một) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Căn cứ vào Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Văn M phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
Bị cáo Nguyễn Văn M phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (28/12/2022).
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA (Đã ký) Phạm Quốc Bảo |
Bản án số 296/2022/HS-PT ngày 28/12/2022 của TAND tỉnh Quảng Nam
- Số bản án: 296/2022/HS-PT
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Ngày ban hành: 28/12/2022
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Nam
- Áp dụng án lệ:
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Bị cáo Nguyễn Văn M bị xử phạt 10 năm tù.