TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Bản án số: 288/2022/DS-ST Ngày: 04-7-2022 V/v tranh chấp Hợp đồng tín dụng | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Châu Trinh
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Nguyễn Phước Trinh
Bà Phạm Thị Ngọc
Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Thanh Đức – Thư ký Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên toà: Ông Lê Quang Trinh – Kiểm sát viên
Ngày 04 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 549/2020/TLST-DS ngày 11 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp Hợp đồng tín dụng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 234/2022/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 5 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 232/2022/QĐST –DS ngày 13 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần A (gọi tắt là Ngân hàng) Trụ sở chính: Số 130 đường L, Phường 3, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ Chi nhánh Củ Chi: Số 398, ấp L, xã H, huyện C, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Địa chỉ phòng giao dịch: Số 1376 đường 8, Ấp 12, xã Đ, huyện C, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Liêu Thanh H – Nhân viên Ngân hàng (có
mặt).
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1973;
Địa chỉ: tổ 8, ấp 5, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Thạch T, sinh năm
1990;
Địa chỉ: tổ 8, ấp 5, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện nộp ngày 13/02/2019, đơn khởi kiện bổ sung, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và lời khai của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày như sau:
Ngày 12/9/2014, bà Nguyễn Thị L có vay tiền Ngân hàng theo giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ số tiền là 20.000.000 đồng, lãi suất: 9,00%/năm, thời hạn vay: 12 tháng, mục đích vay: chăn nuôi. Đến ngày 30/10/2014 Ngân hàng giải ngân cho bà L. Ông Nguyễn Thạch T là người ký bão lãnh cho bà Nguyễn Thị L vay tiền của Ngân hàng.
Trong quá trình thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, bà Nguyễn Thị L không thanh toán vốn và lãi đúng thời hạn. Tính đến thời điểm ngày 04/7/2022, bà Nguyễn Thị L còn nợ số tiền gốc là 7.081.000 đồng, tiền lãi quá hạn là
6.989.184 đồng. Phía Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu buộc cá nhân bà Nguyễn Thị L trả ngay cho Ngân hàng tổng số nợ còn thiếu tạm tính đến ngày 04/7/2022 là: 14.070.184 đồng ngay sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực và số tiền lãi phát sinh từ ngày 05/7/2022 đến ngày bà Nguyễn Thị L trả hết nợ cho Ngân hàng theo thỏa thuận trong giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 12/9/2014. Ngân hàng không yêu cầu chồng bà L chịu trách nhiệm cùng bà L trả nợ cho Ngân hàng.
Trường hợp bà Nguyễn Thị L không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, phía Ngân hàng yêu cầu buộc ông Nguyễn Thạch T phải thanh toán thay cho bà L toàn bộ số tiền còn nợ cho Ngân hàng.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị L vắng mặt tại phiên toà, có đơn xin xét xử vắng mặt nhưng không gửi văn bản trình bày ý kiến.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Thạch T được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên toà, không gửi văn bản trình bày ý kiến.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi phát biểu quan điểm:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn giao hồ sơ cho Viện kiểm sát.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Khắc phục về thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn giao hồ sơ cho Viện kiểm sát.
Về nội dung: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Củ Chi giải quyết buộc bị đơn trả tiền vay, mục đích vay là chăn nuôi, đây là tranh chấp hợp đồng tín dụng được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Bị đơn là bà Nguyễn Thị L hiện đang cư trú tại ấp 5, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Củ Chi.
Về thủ tục tố tụng:
Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được tống đạt thông báo thụ lý, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập nhưng không đến tòa để tham gia tố tụng, không cung cấp cho Tòa án ý kiến về yêu cầu của nguyên đơn cũng như không cung cấp chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử chỉ xem xét tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp.
Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để tham gia tố tụng tại phiên tòa xét xử nhưng bị đơn không có yêu cầu phản tố vắng mặt, có đơn xin vắng mặt. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập, không có đơn xin vắng mặt. Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Về thời hiệu khởi kiện: Do các bên đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về yêu cầu của đương sự:
Hội đồng xét xử xét số tiền nợ gốc còn lại là 7.081.000 đồng, theo tài liệu có trong hồ sơ thể hiện ngày 12/9/2014 bà L có thực hiện vay tiền Ngân hàng theo giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ số tiền là 20.000.000 đồng, lãi suất: 9,00%/năm, thời hạn vay: 12 tháng, mục đích vay: chăn nuôi và đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ, đồng thời đã vi phạm vào khoản 1 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 về nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay, bà L không cung cấp lời khai cũng như tài liệu chứng cứ để xác định về số tiền nợ gốc theo yêu cầu của Ngân hàng là phù hợp không nên Hội đồng xét xử chỉ căn cứ vào tài liệu do Ngân hàng cung cấp là phù hợp quy định của pháp luật.
Hội đồng xét xử xét tiền lãi, tiền lãi chậm trả và lãi suất: Căn cứ vào giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 12/9/2014 và danh sách cho vay trả góp giải ngân qua tài khoản thẻ ngày 30/10/2014 thể hiện lãi suất là
09%/năm. Căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 3 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì: “Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật này và các luật khác có liên quan về thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng… thì áp dụng theo quy định của Luật này”, theo quy định tại Khoản 2 Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”, do đó, đối với hợp đồng vay tài sản mà một bên là tổ chức tín dụng thì lãi suất của hợp đồng vay được thực hiện theo thỏa thuận giữa các bên quy định tại hợp đồng, tiền lãi được tính theo lãi suất và lãi suất chậm trả do Ngân hàng yêu cầu bà L trả là phù hợp quy định của pháp luật.
Như vậy, Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu buộc bà Nguyễn Thị L trả ngay cho Ngân hàng tổng số tiền nợ tính đến ngày 04/7/2022 là:
14.070.184 đồng ngay khi bản án của Tòa án có hiệu lực và số tiền lãi phát sinh từ ngày 05/7/2022 đến ngày bà Nguyễn Thị L trả hết nợ cho Ngân hàng theo thỏa thuận trong giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 12/9/2014 và danh sách cho vay trả góp giải ngân qua tài khoản thẻ ngày 30/10/2014 là có cơ sở để chấp nhận.
Hội đồng xét xử xét yêu cầu của Ngân hàng trường hợp bà L không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì phía Ngân hàng yêu cầu buộc ông Nguyễn Thạch T phải thanh toán thay cho bà L toàn bộ số tiền còn nợ. Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 12/9/2014 thể hiện phần cam kết của người bảo lãnh tại mục IV là trong trường hợp bà Nguyễn Thị L không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ hàng kỳ cho DongA Bank thì người bảo lãnh sẽ trả nợ thay cho người vay cho đến khi hết nợ vay tại DongA Bank, ông Tân đã ký vào phần người bảo lãnh. Căn cứ vào điều 342 Bộ luật dân sự năm 2015 thì yêu cầu của Ngân hàng là có cơ sở để chấp nhận.
Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Ngân hàng không yêu cầu chồng bà L chịu trách nhiệm cùng bà L trả nợ cho Ngân hàng nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Dân sự năm 2017; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 361, Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2005;
Căn cứ Điều 357, Điều 342, Điều 463, Điều 466 và Điều 468 Bộ luật Dân
sự năm 2015;
Căn cứ các điểm c, d khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ vào khoản 2 Điều 3, Điều 91 và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
Căn cứ Điều 6, 7, 26, 30, 31, 32 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014);
Căn cứ Điều 147 Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án,
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A:
Buộc bà Nguyễn Thị L phải thanh toán nợ gốc và lãi tính đến ngày 04/7/2022 cho Ngân hàng số tiền là 14.070.184 đồng (mười bốn triệu không trăm bảy mươi ngàn một trăm tám tư đồng).
Thời gian và cách trả: Trả một lần ngay khi bản án phát sinh hiệu lực pháp
luật.
Kể từ ngày 05/7/2022 bà Nguyễn Thị L còn phải tiếp tục chịu khoản tiền
lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 12/9/2014 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thì lãi suất mà bà L vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng.
Trường hợp bà Nguyễn Thị L không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì ông Nguyễn Thạch T phải thanh toán thay cho bà L toàn bộ số tiền còn nợ cho Ngân hàng.
Án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Nguyễn Thị L phải chịu án phí là 703.509 đồng (Bảy trăm lẻ ba ngàn năm trăm lẻ chín đồng).
Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho Ngân hàng số tiền đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu số AA/2019/0085068 ngày 11/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Thời hạn kháng cáo đối với bản án này là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Nguyễn Châu Trinh |
Bản án số 288/2022/DS-ST ngày 04/07/2022 của TAND huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Số bản án: 288/2022/DS-ST
- Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 04/07/2022
- Loại vụ/việc: Dân sự
- Tòa án xét xử: TAND huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Ngày 12/9/2014, bà Nguyễn Thị L có vay tiền Ngân hàng theo giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ số tiền là 20.000.000 đồng, lãi suất: 9,00%/năm, thời hạn vay: 12 tháng, mục đích vay: chăn nuôi. Đến ngày 30/10/2014 Ngân hàng giải ngân cho bà L. Ông Nguyễn Thạch T là người ký bão lãnh cho bà Nguyễn Thị L vay tiền của Ngân hàng. Trong quá trình thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, bà Nguyễn Thị L không thanh toán vốn và lãi đúng thời hạn. Tính đến thời điểm ngày 04/7/2022, bà Nguyễn Thị L còn nợ số tiền gốc là 7.081.000 đồng, tiền lãi quá hạn là 6.989.184 đồng. Phía Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu buộc cá nhân bà Nguyễn Thị L trả ngay cho Ngân hàng tổng số nợ còn thiếu tạm tính đến ngày 04/7/2022 là: 14.070.184 đồng ngay sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực và số tiền lãi phát sinh từ ngày 05/7/2022 đến ngày bà Nguyễn Thị L trả hết nợ cho Ngân hàng theo thỏa thuận trong giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 12/9/2014. Ngân hàng không yêu cầu chồng bà L chịu trách nhiệm cùng bà L trả nợ cho Ngân hàng. Trường hợp bà Nguyễn Thị L không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, phía Ngân hàng yêu cầu buộc ông Nguyễn Thạch T phải thanh toán thay cho bà L toàn bộ số tiền còn nợ cho Ngân hàng