Hệ thống pháp luật
THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 28/2022/HNGĐ-ST ngày 14/06/2022 của TAND Q. Hoàng Mai, TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Số bản án: 28/2022/HNGĐ-ST
  • Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 14/06/2022
  • Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
  • Tòa án xét xử: TAND Q. Hoàng Mai, TP. Hà Nội
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh Hoàng kết hôn tự nguyện. Ngày 25/11/2010, anh chị đăng ký kết hôn tại UBND xã Hữu Hòa, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Hội đồng xét xử xác định đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc. Đến tháng 12 năm 2012, anh chị phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh chị không hợp nhau về tính cách, bất đồng quan điểm sống, niềm tin và tôn trọng nhau không có. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, đến tháng 01 năm 2018 thì anh chị chính thức sống ly thân. Anh Hoàng đã nhiều lần được Tòa án gửi giấy báo đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng đều vắng mặt. Thời gian giải quyết vụ án, anh Hoàng chỉ nhận một vài văn bản tố tụng; có đơn xin hoãn phiên tòa thể hiện quan điểm là không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án chị N đã cung cấp cho Tòa án nhưng tài liệu như: Biên bản thỏa thuận ngày 31/12/2021 với nội dung về nuôi con chung, cấp dưỡng; chia tài sản chung...; Vi bằng số 1484.2022/VB-TPLHN ngày 02/4/2022 xác nhận “Văn bản thỏa thuận ngày 02/4/2022, về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng”. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân của anh chị đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị N yêu cầu được ly hôn đối với anh L.H.H, cần căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cần chấp nhận cho chị N được ly hôn anh Hoàng. Về con chung: Qua nghiên cứu tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và lời khai của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xác định chị N và anh Hoàng 02 con chung, là L.D, sinh ngày 07/10/2005 và L.K.N, sinh ngày 01/8/2012. Khi ly hôn chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung; việc cấp dưỡng, chị N yêu cầu nghi nhận sự thỏa thuận là mỗi tháng anh Hoàng cấp dưỡng 3.000.000đ cho cháu L.D và 4.000.000đ cho cháu L.K.N để cùng chị N nuôi dưỡng, chăm sóc con chung.6 Xét, chị N là giảng viên của Học viện An ninh nhân dân, cấp bậc Thượng tá với thu nhập gần 20.000.000đ/tháng và có chỗ ở ổn định; từ khi anh chị sống ly thân, 02 con chung thường xuyên ở với chị N, được chị chăm sóc, giáo dục. Mặt khác, 02 con chung đều thể hiện ý chí bằng văn bản là muốn được “ở với mẹ”. Vì vậy, khi anh chị ly hôn cần giao con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định của pháp luật, đảm bảo điều kiện tốt nhất để các cháu phát triển cả về thể chất cũng như tinh thần. Về cấp dưỡng nuôi con chung; chia tài sản chung, anh chị đã thỏa thuận tại “Bản thỏa thuận ngày 31/12/2021 và Vi bằng số 1484.2022/VB-TPLHN ngày 02/4/2022. Sự thỏa thuận này của anh chị là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật nên cần nghi nhận.
Tải về bản án