Bản án số 256/2020/HNGĐ-ST của TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Số bản án: 256/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 18/09/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời khai của nguyên đơn trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, bà Ngô Thị O trình bày:
Bà và ông Nguyễn Tăng D xây dựng gia đình với nhau vào năm 2001 do cả hai cùng tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L (nay là phường T, thành phố Biên Hòa), tỉnh Đồng Nai (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 36/2001, quyển 1/2001 ngày 16/3/2001).
Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng hạnh phúc và có 02 người con chung, nhưng sau đó thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo bà O trình bày là do ông D thường xuyên nhậu nhẹt và có những lời nói xúc phạm bà, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã, không còn tôn trọng lẫn nhau, bản thân bà nhiều lần tạo cơ hội cho ông D sửa đổi nhưng ông D vẫn không thay đổi, nên vợ chông đã sống ly thân. Nay bà nhận thấy không còn tình cảm với ông D, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy bà yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông D.
Về con chung: Có 02 con chung gồm Nguyễn Hoài Quỳnh Th, sinh ngày 19/02/2002 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 19/7/2009. Ly hôn, bà xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con Nguyễn Thanh T, tuy nhiên nguyện vọng của cháu T lại muốn được ở với cha, nên bà đồng ý giao cháu T cho ông D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc; tạm thời bà không phải cấp dưỡng nuôi con chung do ông D không yêu cầu. Hiện nay, con Nguyễn Hoài Quỳnh Th đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: không có
* Theo bản tự khai và lời khai của bị đơn trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, ông Nguyễn Tăng D trình bày:
Về thời gian kết hôn và chung sống vợ chồng đúng như bà O trình bày. Trong quá trình chung sống đến nay, ông xác định vợ chồng có xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng; bản thân ông cũng thừa nhận ông có lỗi với vợ do ông nhậu nhẹt mà dẫn đến việc vợ chồng cãi nhau và có những lời lẽ không hay. Thời gian gần đây, vợ chồng lại nảy sinh những mâu thuẫn về tình cảm do hiểu lầm nhau, việc này ông đã nhận ra lỗi lầm của mình và xin lỗi vợ bỏ qua. Nay ông nhận thấy vẫn còn tình cảm với bà O nên ông không đồng ý ly hôn.
Về con chung: Có 02 con chung gồm Nguyễn Hoài Quỳnh Th, sinh ngày 19/02/2002 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 19/7/2009. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn, ông xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T vì nguyện vọng của cháu cũng muốn được ở với cha; còn cháu Th đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tạm thời ông không yêu cầu bà O phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3
Về nợ chung: không có
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 256/2020/HNGĐ-ST của TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Số bản án: 256/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 18/09/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời khai của nguyên đơn trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, bà Ngô Thị O trình bày:
Bà và ông Nguyễn Tăng D xây dựng gia đình với nhau vào năm 2001 do cả hai cùng tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L (nay là phường T, thành phố Biên Hòa), tỉnh Đồng Nai (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 36/2001, quyển 1/2001 ngày 16/3/2001).
Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng hạnh phúc và có 02 người con chung, nhưng sau đó thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo bà O trình bày là do ông D thường xuyên nhậu nhẹt và có những lời nói xúc phạm bà, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã, không còn tôn trọng lẫn nhau, bản thân bà nhiều lần tạo cơ hội cho ông D sửa đổi nhưng ông D vẫn không thay đổi, nên vợ chông đã sống ly thân. Nay bà nhận thấy không còn tình cảm với ông D, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy bà yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông D.
Về con chung: Có 02 con chung gồm Nguyễn Hoài Quỳnh Th, sinh ngày 19/02/2002 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 19/7/2009. Ly hôn, bà xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con Nguyễn Thanh T, tuy nhiên nguyện vọng của cháu T lại muốn được ở với cha, nên bà đồng ý giao cháu T cho ông D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc; tạm thời bà không phải cấp dưỡng nuôi con chung do ông D không yêu cầu. Hiện nay, con Nguyễn Hoài Quỳnh Th đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: không có
* Theo bản tự khai và lời khai của bị đơn trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, ông Nguyễn Tăng D trình bày:
Về thời gian kết hôn và chung sống vợ chồng đúng như bà O trình bày. Trong quá trình chung sống đến nay, ông xác định vợ chồng có xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng; bản thân ông cũng thừa nhận ông có lỗi với vợ do ông nhậu nhẹt mà dẫn đến việc vợ chồng cãi nhau và có những lời lẽ không hay. Thời gian gần đây, vợ chồng lại nảy sinh những mâu thuẫn về tình cảm do hiểu lầm nhau, việc này ông đã nhận ra lỗi lầm của mình và xin lỗi vợ bỏ qua. Nay ông nhận thấy vẫn còn tình cảm với bà O nên ông không đồng ý ly hôn.
Về con chung: Có 02 con chung gồm Nguyễn Hoài Quỳnh Th, sinh ngày 19/02/2002 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 19/7/2009. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn, ông xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T vì nguyện vọng của cháu cũng muốn được ở với cha; còn cháu Th đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tạm thời ông không yêu cầu bà O phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3
Về nợ chung: không có