Bản án số 25/2022/DS-ST ngày 17/02/2022 của TAND TP. Cà Mau, tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số bản án: 25/2022/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 17/02/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND TP. Cà Mau, tỉnh Cà Mau
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Ngày 15/3/2000, ông Tô Hữu T cùng vợ là bà Trần Thị T1 nhận chuyển
nhượng của ông Nguyễn Trọng Linh phần đất lập vườn và đất ao có diện tích 360m 2
(ngang 05m, dài 72m) tọa lạc tại khóm 1, phường A, thành phố Cà Mau. Đến ngày
2
05/3/2003, vợ chồng bà T1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích
là 335m 2 (ngang 05m, phía Bắc cạnh dài 66m, phía Nam cạnh dài 68m) thuộc thửa số
38, tờ bản đồ số 37. Trong đó, diện tích đất lập vườn có diện tích 225m 2 , đất ao (đất
nuôi trồng thủy sản) có diện tích 110m 2 . Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
có diện tích đất ít hơn diện tích đất chuyển nhượng là do nhà nước trừ đi phần diện
tích đất ven sông và lộ giới. Khi chuyển nhượng cũng như khi làm thủ tục cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, các bên đã tiến hành cấm mốc ranh đất và ông Phan
Thanh T2 chồng của bà Nguyễn Thị D cũng thống nhất ký giáp ranh. Quá trình sử
dụng đất, vợ chồng bà T1 phát hiện hai cột mốc giáp ranh với đất ông T2 bị mất nên
liên hệ ông T2 thì ông T2 nói nhổ nhằm. Sau đó, ông T2 chết vợ chồng bà T1 liên hệ
với bà D cùng phối hợp với chính quyền địa phương cấm lại ranh thì bà D ngăn cản
và chỉ đất bà D lấn sang phần đất của vợ chồng bà T1 chiều dài 6,9m nên các bên
không tiến hành cấm mốc ranh giới thửa đất được nên vợ chồng bà T1 khởi kiện. Nay
tại phiên tòa, bà T1 cho rằng theo bản vẽ hiện trạng của Trung tâm Kỹ thuật – Công
nghệ - Quan trắc Tài nguyên và Môi trường đo vẽ ngày 09/7/2021, phần diện tích đất
thực tế vợ chồng bà đã quản lý sử dụng là 312,2m 2 được thể hiện tại các cột mốc M1,
M2, M3, M4, M5 và M6 là chưa chính xác và không xác định được diện tích đất tranh
chấp, không có sự chứng kiến của bà D nên bà T1 yêu cầu Tòa án căn cứ vào bản vẽ
được cán bộ địa chính phường A đo đạc ngày 21/9/2020 để giải quyết bởi khi địa
phương đo vẽ có sự chứng kiến của bà D, trong đó bà D có ý kiến và chỉ ranh đất giữa
hai bên là cột mốc trụ đá giữa ao. Tuy nhiên, nếu tính từ cột trụ này thì phần đất của
vợ chồng bà T1 còn thiếu nên bà T1 yêu cầu lấy mốc từ cột trụ đá giữa ao mà bà D
chỉ làm chuẩn đo đến phần đất bờ của bà D có chiều dài hai cạnh là 6,9m, chiều
ngang hai cạnh 5m, tổng diện tích là 34,5m 2 thuộc loại đất ao và buộc bà D trả lại
phần diện tích đất này cho vợ chồng bà.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 25/2022/DS-ST ngày 17/02/2022 của TAND TP. Cà Mau, tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số bản án: 25/2022/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 17/02/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND TP. Cà Mau, tỉnh Cà Mau
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Ngày 15/3/2000, ông Tô Hữu T cùng vợ là bà Trần Thị T1 nhận chuyển
nhượng của ông Nguyễn Trọng Linh phần đất lập vườn và đất ao có diện tích 360m 2
(ngang 05m, dài 72m) tọa lạc tại khóm 1, phường A, thành phố Cà Mau. Đến ngày
2
05/3/2003, vợ chồng bà T1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích
là 335m 2 (ngang 05m, phía Bắc cạnh dài 66m, phía Nam cạnh dài 68m) thuộc thửa số
38, tờ bản đồ số 37. Trong đó, diện tích đất lập vườn có diện tích 225m 2 , đất ao (đất
nuôi trồng thủy sản) có diện tích 110m 2 . Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
có diện tích đất ít hơn diện tích đất chuyển nhượng là do nhà nước trừ đi phần diện
tích đất ven sông và lộ giới. Khi chuyển nhượng cũng như khi làm thủ tục cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, các bên đã tiến hành cấm mốc ranh đất và ông Phan
Thanh T2 chồng của bà Nguyễn Thị D cũng thống nhất ký giáp ranh. Quá trình sử
dụng đất, vợ chồng bà T1 phát hiện hai cột mốc giáp ranh với đất ông T2 bị mất nên
liên hệ ông T2 thì ông T2 nói nhổ nhằm. Sau đó, ông T2 chết vợ chồng bà T1 liên hệ
với bà D cùng phối hợp với chính quyền địa phương cấm lại ranh thì bà D ngăn cản
và chỉ đất bà D lấn sang phần đất của vợ chồng bà T1 chiều dài 6,9m nên các bên
không tiến hành cấm mốc ranh giới thửa đất được nên vợ chồng bà T1 khởi kiện. Nay
tại phiên tòa, bà T1 cho rằng theo bản vẽ hiện trạng của Trung tâm Kỹ thuật – Công
nghệ - Quan trắc Tài nguyên và Môi trường đo vẽ ngày 09/7/2021, phần diện tích đất
thực tế vợ chồng bà đã quản lý sử dụng là 312,2m 2 được thể hiện tại các cột mốc M1,
M2, M3, M4, M5 và M6 là chưa chính xác và không xác định được diện tích đất tranh
chấp, không có sự chứng kiến của bà D nên bà T1 yêu cầu Tòa án căn cứ vào bản vẽ
được cán bộ địa chính phường A đo đạc ngày 21/9/2020 để giải quyết bởi khi địa
phương đo vẽ có sự chứng kiến của bà D, trong đó bà D có ý kiến và chỉ ranh đất giữa
hai bên là cột mốc trụ đá giữa ao. Tuy nhiên, nếu tính từ cột trụ này thì phần đất của
vợ chồng bà T1 còn thiếu nên bà T1 yêu cầu lấy mốc từ cột trụ đá giữa ao mà bà D
chỉ làm chuẩn đo đến phần đất bờ của bà D có chiều dài hai cạnh là 6,9m, chiều
ngang hai cạnh 5m, tổng diện tích là 34,5m 2 thuộc loại đất ao và buộc bà D trả lại
phần diện tích đất này cho vợ chồng bà.