Bản án số 247/2020/HNGĐ-ST của TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Số bản án: 247/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 11/09/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: * Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời khai của nguyên đơn trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, bà Nguyễn Thị B trình bày:
Bà và ông Trần Văn Th xây dựng gia đình với nhau vào năm 2003 do cả hai cùng tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân B, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 15/2003 ngày 01/5/2003).
2
Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2006 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo bà B trình bày là do ông Th thường xuyên say xỉn, không có trách nhiệm với gia đình, nhiều lần bà đã khuyên giải để đảm bảo hạnh phúc gia đình nhưng ông Th không thay đổi, dẫn đến vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn và ngày càng trở lên gay gắt, mục đích hôn nhân không đạt được. Đến nay bà nhận thấy không còn tình cảm với ông Th, vì vậy bà yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông Th.
Về con chung: Có 03 con chung gồm Trần Minh H, sinh ngày 31/12/2003; Trần Thị Thu H1, sinh ngày 22/02/2006 và Trần Nguyễn Phúc H2, sinh ngày 01/7/2015. Ly hôn, bà B yêu cầu xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả 03 con chung, tạm thời bà không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Theo bản tự khai và lời khai của bị đơn trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, ông Trần Văn Th trình bày:
Về thời gian kết hôn và chung sống vợ chồng đúng như bà B trình bày. Trong quá trình chung sống đến nay, vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, nên bà B đã nộp đơn xin ly hôn với ông. Lúc đầu ông đồng ý ly hôn theo đơn yêu cầu của bà B nên Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành giữa bà B với ông vào ngày 07/7/2020. Tuy nhiên, sau khi về suy nghĩ lại ông cảm thấy còn thương bà B, do đó ngày 09/7/2020 ông đã nộp đơn xin thay đổi ý kiến, ông không đồng ý ly hôn với bà B, đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng hàn gắn đoàn tụ.
Về con chung: Có 03 con chung gồm Trần Minh H, sinh ngày 31/12/2003; Trần Thị Thu H1, sinh ngày 22/02/2006 và Trần Nguyễn Phúc H2, sinh ngày 01/7/2015. Theo ý kiến của ông tại bản tự khai, biên bản hòa giải ngày 07/7/2020, ông đồng ý giao cả 03 con chung cho bà B trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, ông đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 6.000.000 đồng cho 03 con (mỗi con là 2.000.000đ/tháng).
Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 247/2020/HNGĐ-ST của TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Số bản án: 247/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 11/09/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: * Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời khai của nguyên đơn trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, bà Nguyễn Thị B trình bày:
Bà và ông Trần Văn Th xây dựng gia đình với nhau vào năm 2003 do cả hai cùng tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân B, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 15/2003 ngày 01/5/2003).
2
Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2006 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo bà B trình bày là do ông Th thường xuyên say xỉn, không có trách nhiệm với gia đình, nhiều lần bà đã khuyên giải để đảm bảo hạnh phúc gia đình nhưng ông Th không thay đổi, dẫn đến vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn và ngày càng trở lên gay gắt, mục đích hôn nhân không đạt được. Đến nay bà nhận thấy không còn tình cảm với ông Th, vì vậy bà yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông Th.
Về con chung: Có 03 con chung gồm Trần Minh H, sinh ngày 31/12/2003; Trần Thị Thu H1, sinh ngày 22/02/2006 và Trần Nguyễn Phúc H2, sinh ngày 01/7/2015. Ly hôn, bà B yêu cầu xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả 03 con chung, tạm thời bà không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Theo bản tự khai và lời khai của bị đơn trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, ông Trần Văn Th trình bày:
Về thời gian kết hôn và chung sống vợ chồng đúng như bà B trình bày. Trong quá trình chung sống đến nay, vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, nên bà B đã nộp đơn xin ly hôn với ông. Lúc đầu ông đồng ý ly hôn theo đơn yêu cầu của bà B nên Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành giữa bà B với ông vào ngày 07/7/2020. Tuy nhiên, sau khi về suy nghĩ lại ông cảm thấy còn thương bà B, do đó ngày 09/7/2020 ông đã nộp đơn xin thay đổi ý kiến, ông không đồng ý ly hôn với bà B, đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng hàn gắn đoàn tụ.
Về con chung: Có 03 con chung gồm Trần Minh H, sinh ngày 31/12/2003; Trần Thị Thu H1, sinh ngày 22/02/2006 và Trần Nguyễn Phúc H2, sinh ngày 01/7/2015. Theo ý kiến của ông tại bản tự khai, biên bản hòa giải ngày 07/7/2020, ông đồng ý giao cả 03 con chung cho bà B trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, ông đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 6.000.000 đồng cho 03 con (mỗi con là 2.000.000đ/tháng).
Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.