Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

Bản án số: 239/2024/HSPT Ngày: 30-5-2024

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

Tổng giá trị tài sản là 3.854.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2024/HSST ngày 15/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Bùi Bá N phạm tội “Giết người” và “Cướp tài sản”.

Căn cứ các điểm a, b, e, n khoản 1 Điều 123 và khoản 1 Điều 168; Điều 15; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55; khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Bá N 18 (mười tám) năm tù về tội “Giết người” và 05(năm) năm tù về tội “Cướp tài sản”, tổng hợp hình phạt hai tội buộc bị cáo Bùi Bá N phải chấp hành hình phạt chung là 23 (hai mươi ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/6/2023.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 19/3/2024, bị cáo Bùi Bá N kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nắng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

Trong luận cứ bào chữa, Luật sư Nguyễn Văn C bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, xem xét ý kiến của Luật sư và quan điểm của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

  1. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, Luật sư Nguyễn Văn C có đơn xin xét xử vắng mặt và gửi Luận cứ bào chữa cho bị cáo. Bị cáo Bùi Bá N đồng ý tự bào chữa và đề nghị Hội đồng tiến hành xét xử vụ án.

    Bị cáo Bùi Bá N thừa nhận hành vi và tội danh như Tòa án cấp sơ thẩm xét xử là đúng, chỉ giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm hình phạt.

  2. Lời khai của bị cáo Bùi Bá N tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, cụ thể:

    Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác nên vào khoảng 04 giờ ngày 24/7/2012 tại Thôn E, xã E, huyệnE, tỉnh Đắk Lắk, xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống, bị cáo Bùi Bá N đã có hành vi dùng dao đâm 01 nhát phía sau vào vùng lưng xuyên qua ngực phải của bà Phạm Thị T2 gây thương tích 25%; chị Chu Thị P đến can ngăn thì bị cáo dùng dao chém nhiều nhát về phía chị P trúng vào vùng tay trái, ngực trái của chị P, gây thương tích 16%. Sau đó, bị cáo cướp 02 chiếc điện thoại di động và 01 xe mô tô BKS 61L2-1416 rồi bỏ trốn, tổng giá trị tài sản là 3.854.000 đồng.

    Xét thấy, bị cáo đã có hành vi dùng dao (hung khí nguy hiểm) để đâm, chém nhiều nhát vào vùng ngực, lưng là vùng trọng yếu của các bị hại, gây tổn thương cơ thể là 25%, 16%, nếu các bị hại không được cấp cứu kịp thời thì có

    thể nguy hiểm đến tính mạng. Sau đó, bị cáo tiếp tục cướp 02 chiếc điện thoại di động và 01 xe mô tô BKS 61L2-1416 với tổng giá trị tài sản là 3.854.000 đồng. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Bị cáo Bùi Bá N đã phạm tội “Giết người”, ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng khác là “Cướp tài sản”.

    Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Bùi Bá N về tội “Giết người” theo quy định tại điểm a, b, e, n khoản 1 Điều 123 và tội “Cướp tài sản” khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật, phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

  3. Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo trước đó đã bị Tòa án nhân dân huyện Ngọc Lặc xử phạt về tội "Tàng trữ vũ khí quân dụng", "Trộm cắp tài sản" nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng khác.

Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án đã xem xét áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường 50.000.000 đồng cho các bị hại; được bị hại làm đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là các tình tiết được quy định điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo phạm tội Giết người thuộc trường hợp chưa đạt quy định tại Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với 4 tình tiết định khung quy định tại khoản 1 Điều 123 BLHS. Từ đó tuyên phạt bị cáo mức án 18 năm tù về tội ‘Giết người” và 5 năm tù về tội “Cướp tài sản” là tương xứng với tính chất hành vi và hậu quả của vụ án; bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nào nên kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận. Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.

Về án phí phúc thẩm hình sự: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

  1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Bá N (tên gọi khác: Bùi Văn N1), giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

    Căn cứ các điểm a, b, e, n khoản 1 Điều 123 và khoản 1 Điều 168, Điều 15; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55; khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự.

    Xử phạt bị cáo Bùi Bá N 18 (mười tám) năm tù về tội “Giết người” và 05(năm) năm tù về tội “Cướp tài sản”, tổng hợp hình phạt hai tội buộc bị cáo Bùi Bá N phải chấp hành hình phạt chung là 23 (hai mươi ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/6/2023.

  2. Về án phí hình sự phúc thẩm:

Bị cáo Bùi Bá N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

  • Vụ Giám đốc kiểm tra I - TAND tối cao;

  • VKSND cấp cao tại Đà Nắng;

  • TAND tỉnh Đắk Lắk;

  • Cơ quan CSĐT-Công an tỉnh Đắk Lắk;

  • Phòng HSNV-Công an tỉnh Đắk Lắk;

  • Cơ quan CSTHAHS-CA tỉnh Đắk Lắk;

  • Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk;

  • Cục THADS tỉnh Đắk Lắk;

  • Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk;

  • Bị cáo;

  • Người tham gia tố tụng khác;

  • Lưu HSVA, PHCTP, LT.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

(Đã ký)

Nguyễn Cường

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 239/2024/HSPT ngày 30/05/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng

  • Số bản án: 239/2024/HSPT
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Phúc thẩm
  • Ngày ban hành: 30/05/2024
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Bá N (tên gọi khác: Bùi Văn N1), giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Tải về bản án