Bản án số 237/2021/DS-ST ngày 12/07/2021 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Số bản án: 237/2021/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 12/07/2021
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Vào năm 2011, tôi có ký hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê với Công ty Cổ phần cà phê T số 14/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011. Theo hợp đồng thì tôi đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1972 của Công ty có diện tích 9.880m2, diện tích bờ lô 1.435m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 12, thửa đất số 06, tờ bản đồ số 08, địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là: 29.353.995đ; Giá trị vườn cây còn lại là 17.506.502đ. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 04 năm, tính từ ngày ký hợp đồng. Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017-2018, tôi đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của Công ty và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo hợp đồng giao khoán vườn cây đã ký với Công ty. Tuy nhiên, đến năm 2018 thì tôi phát hiện Công ty có sự gian lận, cụ thể: Tôi phát hiện Công ty đã gian lận chi phí nhân công cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 86.954.753,2 đồng (Bình quân một năm Công ty gian lận là 12.422.107,6 đồng/năm); Công ty đã gian lận sản phẩm cà phê quả tươi làm thành cà phê quy nhân cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 3.038kg cà phê quả tươi, giá tiền: 8.000 đồng/kg, thành tiền là 24.304.000 đồng (Bình quân một năm là 434kg, giá tiền 8.000 đồng/kg, thành tiền là 3.472.000 đồng/năm); Công ty đã gian lận tiền thủy lợi phí tiền thuê giếng tưới cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2018) mà Công ty không trả cho ông H phần 51% lẽ ra Công ty phải chịu với số tiền là 7.344.000 đồng (Bình quân một năm là 918.000 đồng/năm).
Theo đơn khởi kiện của ông H thì ông H yêu cầu Công ty Cổ phần cà phê T phải trả cho ông H tổng số tiền là 116.358.753,2đ.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông Nguyễn Đình H thay đổi một phần nội dung yêu cầu khởi kiện từ yêu cầu trả tiền thủy lợi phí khấu hao kênh mương sang yêu cầu trả tiền thủy lợi phí thuê giếng tưới nước và rút một phần nội dung yêu cầu khởi kiện đối với các yêu cầu là: Buộc Công ty trả lại chi phí đã gian lận trong tính toán chi phí nhân công, số cà phê quả tươi đã gian lận và tiền thuê giếng tưới nước từ năm 2014 đến năm 2018 với tổng số tiền là 114.544.785,2đ (Một trăm mười bốn triệu năm trăm bốn mươi tư nghìn bảy trăm tám mươi lăm phẩy hai đồng). Đối với số tiền thuê giếng tưới nước còn lại thì ông H đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết buộc Công ty Cổ phần cà phê T phải trả lại cho ông H cụ thể số tiền sau: 918.000đ x 0,9880ha x 03 năm (Từ năm 2011 – 2012) = 1.813.968đ (Một triệu tám trăm mười ba nghìn chín trăm sáu mươi tám đồng) do ông H và Công ty Cổ phần cà phê T đã thanh lý vườn cây vào năm 2014. Ngoài ra ông H không có yêu cầu gì thêm.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 237/2021/DS-ST ngày 12/07/2021 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Số bản án: 237/2021/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 12/07/2021
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Vào năm 2011, tôi có ký hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê với Công ty Cổ phần cà phê T số 14/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011. Theo hợp đồng thì tôi đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1972 của Công ty có diện tích 9.880m2, diện tích bờ lô 1.435m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 12, thửa đất số 06, tờ bản đồ số 08, địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là: 29.353.995đ; Giá trị vườn cây còn lại là 17.506.502đ. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 04 năm, tính từ ngày ký hợp đồng. Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017-2018, tôi đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của Công ty và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo hợp đồng giao khoán vườn cây đã ký với Công ty. Tuy nhiên, đến năm 2018 thì tôi phát hiện Công ty có sự gian lận, cụ thể: Tôi phát hiện Công ty đã gian lận chi phí nhân công cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 86.954.753,2 đồng (Bình quân một năm Công ty gian lận là 12.422.107,6 đồng/năm); Công ty đã gian lận sản phẩm cà phê quả tươi làm thành cà phê quy nhân cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 3.038kg cà phê quả tươi, giá tiền: 8.000 đồng/kg, thành tiền là 24.304.000 đồng (Bình quân một năm là 434kg, giá tiền 8.000 đồng/kg, thành tiền là 3.472.000 đồng/năm); Công ty đã gian lận tiền thủy lợi phí tiền thuê giếng tưới cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2018) mà Công ty không trả cho ông H phần 51% lẽ ra Công ty phải chịu với số tiền là 7.344.000 đồng (Bình quân một năm là 918.000 đồng/năm).
Theo đơn khởi kiện của ông H thì ông H yêu cầu Công ty Cổ phần cà phê T phải trả cho ông H tổng số tiền là 116.358.753,2đ.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông Nguyễn Đình H thay đổi một phần nội dung yêu cầu khởi kiện từ yêu cầu trả tiền thủy lợi phí khấu hao kênh mương sang yêu cầu trả tiền thủy lợi phí thuê giếng tưới nước và rút một phần nội dung yêu cầu khởi kiện đối với các yêu cầu là: Buộc Công ty trả lại chi phí đã gian lận trong tính toán chi phí nhân công, số cà phê quả tươi đã gian lận và tiền thuê giếng tưới nước từ năm 2014 đến năm 2018 với tổng số tiền là 114.544.785,2đ (Một trăm mười bốn triệu năm trăm bốn mươi tư nghìn bảy trăm tám mươi lăm phẩy hai đồng). Đối với số tiền thuê giếng tưới nước còn lại thì ông H đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết buộc Công ty Cổ phần cà phê T phải trả lại cho ông H cụ thể số tiền sau: 918.000đ x 0,9880ha x 03 năm (Từ năm 2011 – 2012) = 1.813.968đ (Một triệu tám trăm mười ba nghìn chín trăm sáu mươi tám đồng) do ông H và Công ty Cổ phần cà phê T đã thanh lý vườn cây vào năm 2014. Ngoài ra ông H không có yêu cầu gì thêm.