TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUẬN HẢI CHÂU Độc lập - Tự Do - hạnh phúc TP. ĐÀ NẴNG
Bản án số: 23/2020/HSST Ngày 28/04/2020
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU - TP. ĐÀ NẴNG
Với thành phần HĐXX sơ thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trương Thanh Phúc Các hội thẩm nhân dân:
Ông Phạm Xoa
Ông Huỳnh Tiễn
Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Trần Thị Tuyết Nhung - Cán bộ Toà án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu tham gia phiên toà: Ông Nguyễn Văn Quốc - Kiểm sát viên.
Ngày 28/04/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng mở phiên toà công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 25/2020/HSST ngày 20/03/2020 đối với các bị cáo:
Họ và tên: Lê Tuấn H, sinh ngày: 10/02/2000 tại tỉnh Kon Tum. Nơi thường trú: Đường M, phường N, thành phố P, tỉnh Kon Tum. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa Giáo; Chứng minh nhân dân số: 233275517, cấp ngày: 24/09/2014, nơi cấp: Công an tỉnh Kon Tum. Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Con ông Lê Tấn L ( Còn sống) và bà Trương Thụy Tố Ch ( Còn sống). Bị cáo là con út trong gia đình có 02 anh em. Tiền án: Chưa; Tiền sự: Chưa. Bi cáo bị bắt tạm giam ngày 04 tháng 02 năm 2020. Có mặt tại phiên tòa.
Họ và tên: Đào Minh Ch, sinh ngày 13/01/2000 tại tỉnh Kon Tum. Nơi Thường Trú: Đường M, phường N, thành phố P, tỉnh Kom Tum. Nơi tạm trú: Đường M, phường N, quận P, thành phố Đà Nẵng. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Chứng minh nhân dân số: 233273640 cấp ngày 22/09/2014, nơi cấp: Công an tỉnh Kon Tum. Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Sinh viên trường cao đẳng thương mại Đà Nẵng; Con ông Đào Xuân Th ( Còn sống) và bà Nguyễn Thị Nh ( Còn sống). Bị cáo là con đầu trong gia đình có 02 anh em.Tiền án: Chưa; Tiền sự: Chưa.
Bị cáo đang được tại ngoại theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 24/2020/HSST – LCĐKNCT ngày 26/03/2020 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Ông Tô Giang N, sinh năm: 1998. Nơi cư trú: Đường M, phường N, thành phố P, tỉnh Kon Tum. Nơi tạm trú: Đường M, phường N, quận P, thành phố Đà Nẵng ( vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Lê Anh T, sinh năm: 1995. Nơi cư trú: Đường M, phường N, thành phố P, tỉnh Kon Tum. Tạm trú tại: Đường M, phường N, quận P, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).
Bà Nguyễn Thị Vi Tr, sinh năm: 1998. Hộ khẩu thường trú: Đường M, phường N, thành phố P, tỉnh Kon Tum. Tạm trú tại: Đường M, phường N, quận P, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).
Ông Trần Hùng Ng, sinh năm: 1998. Nơi cư trú: Đường M, phường N, thành phố P
, tỉnh Kon Tum. Tạm trú tại: Đường M, phường N, quận P , thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).
Người làm chứng: Ông Nguyễn Ngọc D, sinh năm: 1962. Hộ khẩu thường trú: Đường M, phường N, quận P , thành phố Đà Nẵng. Tạm trú tại: Đường M, phường N, quận P, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 00 ngày 11.8.2019, Lê Tuấn H và Đào Minh Ch đến phòng trọ của Trần Hùng Ng tại đường Trần Đại Nghĩa, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng để ngồi nhậu chung với nhóm của Ng gồm: Nguyễn Thị Vi Tr, Lê Anh T và Nguyễn Tâm V. Trong lúc ngồi nhậu, T và Tr có kể chuyện xảy ra mâu thuẫn với Tô Giang N nên cần phải tìm trọ mới để ở, nghe vậy H và Ch đề nghị tìm đánh Tô Giang N thì được mọi người can ngăn. Đến khoảng 14 giờ 30 cùng ngày, sau khi nhậu xong cả nhóm đi tìm phòng trọ mới cho Tr, trên đường đi H và Ch bị lạc đường nên chạy về phòng trọ cũ của Tr tại Đường M, phường N, quận P, TP. Đà Nẵng để đợi T và Tr về trả xe mượn trước đó. Khi H nhìn thấy N đang nằm trong phòng, H liền xông vào dùng tay đánh vào vùng đầu và vùng mặt N nhiều cái, Ch cũng xông đến dùng tay, chân đánh vào vùng đầu và mặt của N. Khi N ngã xuống nền nhà, H thấy nón bảo hiểm của N để gần đó, H lấy đánh vào vùng đầu và mặt của N nhiều cái gây thương tích. Nghe có tiếng ồn ào, ông Nguyễn Ngọc D là chủ của dãy trọ đi xuống xem, thấy có người H và Ch bỏ đi, còn N thì được mọi người đưa đi cấp cứu.
Tang vật tạm giữ:
01 nón bảo hiểm màu xanh lá cây, có sọc trắng, có chữ Grab ở hai bên.
Theo Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 303/TgT ngày 23.9.2019 của Trung tâm pháp y thành phố Đà Nẵng đối với Tô Giang N kết luận:
Dấu hiệu chính qua giám định: Chấn động não điều trị ổn định.
Chấn thương gãy xương chính mũi, đã điều trị phẫu thuật nâng chỉnh xương chính mũi. Hiện tại mũi thẳng trục, còn có điểm đau nhói, không ảnh hưởng đến chức năng thở và ngửi.
Chấn thương sưng bầm hai mắt. Hiện tại hai mắt không sưng, không bầm tụ máu giác mạc trong, vận động nhãn cầu bình thường; thị lực hai mắt bình thường
Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 12%.
Vật gây thương tích: Tổn thương trên là do ngoại lực tác động trực tiếp, vật tác động phù hợp với vật tày gây nên.
Xử lý vật chứng:
Chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu chờ xử lý: 01 nón bảo hiểm màu xanh lá cây, có sọc trắng, có chữ Grab ở hai bên.
Về dân sự: Các bị can đã bồi thường cho Tô Giang N số tiền là 15.000.000 đồng, N không có yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị can.
Tại bản cáo trạng số 30/CT - VKS ngày 18/03/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố các bị cáo Lê Tuấn H và Đào Minh Ch về tội “ Cốđược quy định tại Điểm đ Khoản 2 ( thuộc trường hợp quy định tại Điểm a, i Khoản 1) Điều 134 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng Điểm đ Khoản 2 ( thuộc trường hợp quy định tại Điểm a, i Khoản 1) Điều 134 Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ Luật hình sự để xử phạt bị cáo Lê Tuấn H từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù về tội “ Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng Điểm đ Khoản 2 ( thuộc trường hợp quy định tại Điểm a, i Khoản 1) Điều 134 Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ Luật hình sự để xử phạt bị cáo Đào Minh Ch từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù về tội “ Cố ý gây thương tích”.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho chủ sở hữu anh Tô Giang N 01 nón bảo hiểm màu xanh lá cây, có sọc trắng, có chữ Grab ở hai bên.
Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo đã bồi thường cho Tô Giang N số tiền là
15.000.000 đồng. Người bị hại anh N không có yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết về mặt dân sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lê Tuấn H; Đào Minh Ch đều khai nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã đề cập. Các bị cáo không có ý kiến về mặt tội danh cũng như điều luật mà đại diện Viện kiểm sát truy tố và đề nghị áp dụng.
Bị cáo Lê Tuấn H nói lời sau cùng: Bị cáo thấy được lỗi lầm của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Bị cáo Đào Minh Ch nói lời sau cùng: Bị cáo thấy được lỗi lầm của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ :
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau :
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa; các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người đã tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Xét hành vi phạm tội của các bị cáo Lê Tuấn H và Đào Minh Ch thì thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với những chứng cứ, tài liệu khác mà cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở để xác định: Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 11/08/2019 tại phòng trọ tại địa chỉ số Đường M, phường N, quận P, thành phố Đà Nẵng, các bị cáo Lê Tuấn H, Đào Minh Ch đã có hành vi dùng chân, tay, mũ bảo hiểm đánh vào vùng mặt, đầu của anh Tô Giang N gây tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 12% theo kết luận giám định pháp y về thương tích số: 303/TgT ngày 23.9.2019 của Trung tâm pháp y thành phố Đà Nẵng đối với Tô Giang N kết luận.
Các bị cáo phạm tội với tình tiết định khung hình phạt “ Dùng hung khí nguy hiểm” và “có tính chất côn đồ” nên thuộc tình tiết định khung hình phạt về tội “ Cố ý gây thương tích” được quy định tại Điểm đ Khoản 2 ( thuộc trường hợp quy định tại Điểm a, i Khoản 1) Điều 134 Bộ luật hình sự như cáo trạng số 30/CT - VKS ngày 18/03/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét tính chất vụ án, vai trò của từng bị cáo, mức độ nguy hiểm cho xã hội mà các bị cáo đã thực hiện thấy rằng: Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền được sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ về thể chất, tinh thần, sức khỏe, tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo không quen biết và cũng không có mâu thuẫn gì với anh Tô Giang N, nhưng khi ngồi nhậu nghe T và Tr có kể chuyện xảy ra mâu thuẫn với Tô Giang N trong sinh hoạt tại khu nhà trọ thì bị cáo Lê Tuấn H và Đào Minh Ch đã tìm và đánh anh Tô Giang N gây thương tích, thể hiện hành vi của các bị cáo là có tính chất côn đồ, coi thường pháp luật. Trong vụ án vai trò của bị cáo Lê Tuấn H là cao hơn bị cáo Ch thể hiện khi đến phòng trọ anh N đang ở bị cáo là người đi vào tìm cớ gây mâu thuẫn để đánh anh N trước, đồng thời là người trực tiếp lấy mũ bảo hiểm đánh vào đầu anh Tô Giang N, bị cáo Ch là người trực tiếp dùng chân, tay đánh vào mặt
anh N. Do đó, đối với bị cáo Lê Tuấn H cần phải xử mức án cao hơn bị cáo Ch, đồng thời Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly các bị cáo ra xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục người có ích cho xã hội.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đề nghị mức án đối với bị cáo Lê Tuấn H từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù; mức án đối với bị cáo Đào Minh Ch từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù cùng về tội “ Cố ý gây thương tích”. Hội đồng xét xử xét thấy, như đã phân tích các bị cáo H, Ch ngay từ đầu không hề quen biết, mâu thuẫn gì với người bị hại anh Tô Giang N nhưng vẫn tìm đánh sau khi T và Tr có kể chuyện xảy ra mâu thuẫn với Tô Giang N trong sinh hoạt tại khu nhà trọ mặc dù đã được mọi người can ngăn. Tại phiên tòa các bị cáo khai trong lúc đánh anh N, người bị hại ôm đầu ngồi nhưng các bị cáo vẫn đánh, bị cáo H thì dùng vật cứng mũ bảo hiểm đánh vào vùng đầu, mặt anh N. Các bị cáo chỉ dừng đánh anh N khi nghe tiếng của chủ nhà trọ ông Nguyễn Ngọc D thì các bị cáo mới bỏ đi. Xét thấy, mức độ hành vi của các bị cáo là rất côn đồ, coi thường pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy mức đề nghị hình phạt của đại diện viện kiểm sát đối với 02 bị cáo là thấp so với hành vi phạm tội của các bị cáo, không mang tính răn đe, nên cần phải xử mức án cao hơn đối với cả hai bị cáo so với mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát mới tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Lê Tuấn H, Đào Minh Ch có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Các bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho người bị hại anh Tô Giang N số tiền 15.000.000 đồng; người bị hại anh Tô Giang N đã có đơn xin bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình cho các bị cáo Lê Tuấn H và Đào Minh Ch. Xét thấy các bị cáo Lê Tuấn H, Đào Minh Ch đều có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, có nhân thân tốt nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng cho hai bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án gồm:
- 01 nón bảo hiểm màu xanh lá cây, có sọc trắng, có chữ Grab ở hai bên. Xét đây là vật dụng cá nhân của người bị hại anh Tô Giang N nên cần tuyên trả lại cho chủ sở hữu anh Tô Giang N.
Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Lê Tuấn H, Đào Minh Ch đã tác động gia đình bồi thường cho người bị hại anh Tô Giang N số tiền 15.000.000 đồng; Người bị hại anh Tô Giang N đã có đơn xin bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Quá trình điều tra người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
Đối với anh Lê Anh T, Nguyễn Thị Vi Tr, Trần Hùng Ng quá trình điều tra thể hiện không liên quan đến hành vi cố ý gây thương tích của bị cáo H và Ch. Do đó, cơ quan
cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng không đề cập xử lý là có căn cứ.
Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo phải chịu: 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Lê Tuấn H, Đào Minh Ch phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
+ Căn cứ Điểm đ Khoản 2 ( thuộc trường hợp quy định tại Điểm a, i Khoản 1) Điều 134 Bộ luật hình sự; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lê Tuấn H 18 (mười tám) tháng tù. Thời gian thụ hình tính từ ngày bắt tạm giam ngày 04/02/2020.
+ Căn cứ Điểm đ Khoản 2 ( thuộc trường hợp quy định tại Điểm a, i Khoản 1) Điều 134 Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Đào Minh Ch 15 (mười lăm) tháng tù. Thời gian thụ hình tính từ ngày bắt giam chấp hành án.
sự.
Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình
Tuyên: Trả lại cho chủ sở hữu anh Tô Giang N 01 nón bảo hiểm màu xanh lá cây, có
sọc trắng, có chữ Grab ở hai bên. Vật chứng trên hiện đang được giữ tại Chi cục Thi hành án quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/04/2020.
Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Lê Tuấn H, Đào Minh Ch đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại số tiền 15.000.000 đồng. Người bị hại anh Tô Giang N không yêu cầu bồi thường gì thêm. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Lê Tuấn H, Đào Minh Ch mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Riêng người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc trích sao bản án.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Tòa án TP Đà Nẵng; Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
VKSND thành phố Đà Nẵng;
VKSND quận Hải Châu;
Công an quận Hải Châu
PHSNV công an quận Hải Châu;
Chi cục THA quận. Hải Châu
Những người Tham gia tố tụng
Lưu hồ sơ
Trương Thanh Phúc
Bản án số 23/2020/HSST của TAND Q. Hải Châu, TP Đà Nẵng
- Số bản án: 23/2020/HSST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 28/04/2020
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND Q. Hải Châu, TP Đà Nẵng
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: H - C