Hệ thống pháp luật
THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 21/2020/DS-PT của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm

  • Số bản án: 21/2020/DS-PT
  • Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm...
  • Cấp xét xử: Phúc thẩm
  • Ngày ban hành: 28/02/2020
  • Loại vụ/việc: Dân sự
  • Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bạc Liêu
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Ông H và bà Nguyễn Thị S chung sống như vợ chồng vào năm 1978 nhưng không có thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Đến năm 1979, ông H đưa tiền cho bà S nhận chuyển nhượng phần đất đang tranh chấp hiện nay từ ông 7 LL và vợ tên Nguyễn Thị Đ, nhưng ông H không nhớ chuyển nhượng phần đất có chiều ngang, chiều dài bao nhiêu và với giá bao nhiêu tiền. Việc chuyển nhượng do bà S trực tiếp thực hiện, ông H không có tham gia. Sau đó, ông H và bà S cất căn nhà trên phần đất này; do làm nghề chạy tàu nên ông H không có ở nhà mà đưa tiền cho bà S xây dựng, ông H không biết xây nhà trong thời gian bao lâu và hết bao nhiêu tiền. Quá trình chung sống, ông H và bà S sinh được 01 người con gái được 02 – 03 tháng tuổi thì đã chết; đến năm 1980 sinh thêm 01 người con gái nữa được 07 tuổi cũng chết. Sau khi người con thứ hai chết khoảng 03 năm thì ông H đi nơi khác và không còn sống chung với bà S nữa. Năm 1992, thì hai người chính thức ly thân, cả hai người mạnh ai nấy sống, không còn gắn kết vợ chồng; bà S có tình cảm và chung sống với người đàn ông khác. Sau khi ly thân, bà S đã đăng ký kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất có nguồn gốc nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông 7 LL; sau này bà S đã được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo bản đồ chính quy. Ông H biết bà S được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu và cấp đổi lần 2 là cấp cho cá nhân bà Sang nhưng ông đồng ý việc này và không có ý kiến phản đối. Ông H xác định bà Sang không có chuyển nhượng nhà và đất tại số 54B, ấp Nội Ô cho chị D. Tài sản đang tranh chấp là tài sản chung của ông và bà S, sau khi bà S chết thì ông là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất và cũng là người duy nhất được hưởng thừa kế di sản của bà S, do đó ông H yêu cầu chị D trả phần đất qua đo đạc thực tế có diện tích 90,6m2 và căn nhà trên đất, nhưng ông H đồng ý trả lại cho chị D phần chi phí chị D đã sữa chữa, tôn tạo căn nhà là 57.882.969 đồng. Từ khi bà S chung sống với ông Mai Hòa H1 thì ông H biết việc này nhưng ông H không có gặp ông H để phản đối, không yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Khi bà S chết thì ông H không hay biết, một thời gian sau mới hay được; ông H xác định các chi phí tổ chức tang lễ của bà S là do các người chị và em của bà S chi trả, ông H không có chi trả. Ngoài ra, ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết thêm vấn đề nào khác.
Tải về bản án