Hệ thống pháp luật
THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 188/2021/DS-ST của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản

  • Số bản án: 188/2021/DS-ST
  • Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 03/06/2021
  • Loại vụ/việc: Dân sự
  • Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Vào năm 2011, tôi có ký hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê với Công ty cổ phần cà phê T số 19/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011. Theo hợp đồng thì: Tôi đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối của Công ty có diện tích là 7.900m2, diện tích bờ lô 1.147m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 12, thửa đất số 24, tờ bản đồ số 8, địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là: 32.780.516đ; Giá trị vườn cây còn lại 21.282.537đ. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 04 năm, tính từ ngày ký hợp đồng. Nếu bên quản lý tốt đất đai, vườn cây, luôn hoàn thành tốt nghĩa vụ với bên A và có nhu cầu tiếp tục hợp đồng thì được ưu tiên xem xét ký hợp đồng giao khoán tiếp. Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017 - 2018, tôi đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của Công ty và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo hợp đồng giao khoán vườn cây đã ký với Công ty. Tuy nhiên, đến năm 2018 thì tôi phát hiện Công ty có sự gian lận, cụ thể: Tôi phát hiện Công ty đã gian lận chi phí nhân công cho diện tích 7.900m2 trong 07 năm (từ năm 2011 - 2017) là 68.694.255đ (Bình quân một năm Công ty gian lận là 12.422.107,6 đồng/năm); Công ty đã gian lận sản phẩm cà phê quả tươi làm thành cà phê quy nhân cho diện tích 7.900m2 trong 07 năm (từ năm 2011 - 2017) là 3.038kg cà phê quả tươi, giá tiền: 8.000 đồng/kg, thành tiền là 19.200.000đ (Bình quân một năm là 434kg, giá tiền 8.000 đồng/kg, thành tiền là 3.472.000 đồng/năm); Công ty đã gian lận tiền thủy lợi phí tiền thuê giếng tưới cho diện tích 7.900m2 (từ năm 2011 - 2018) mà Công ty không trả cho tôi phần 51% lẽ ra Công ty phải chịu với số tiền là 5.076.540đ (Bình quân một năm là 918.000 đồng/năm). Theo đơn khởi kiện của tôi thì tôi yêu cầu Công ty cổ phần cà phê T phải trả cho tôi tổng số tiền là 116.358.753,2đ. Tuy nhiên, sau khi tính toán lại thì số tiền tôi bị Công ty gian lận là 92.970.795đ. Cũng tại đơn khởi kiện tôi yêu cầu Công ty cổ phần cà phê T trả cho tôi tiền thủy lợi phí khấu hao kênh mương, tuy nhiên do tôi tưới giếng, do đó tôi xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu số (3), yêu cầu Công ty cổ phần cà phê T trả tiền thuê giếng tưới nước cho tôi. Tại phiên tòa hôm nay tôi xin rút một phần nội dung yêu cầu khởi kiện đối với hai yêu cầu là: Buộc Công ty trả lại chi phí đã gian lận trong tính toán chi phí nhân công và buộc Công ty trả lại số cà phê quả tươi đã gian lận và một phần, với tổng số tiền là 111.282.213,2đ. Đối với số tiền thuê giếng tưới nước còn lại thì tôi đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết buộc Công ty cổ phần cà phê T phải trả lại cho tôi cụ thể số tiền sau: 5.076.540đ.
Tải về bản án