Bản án số 17/2020/HNGĐ-ST ngày 20/03/2020 của TAND tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Số bản án: 17/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 20/03/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: anh Nguyễn Thế A trình bày:
-Về quan hệ vợ chồng: Tôi và chị Phạm Thị T kết hôn vào ngày 26/3/2013 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường X, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn chị T về chung sống cùng gia đình tôi. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không còn tình cảm với nhau. Đến năm 2016 thì chị T đi lao động tại Nhật Bản kể từ đó đến nay vợ chồng ít liên lạc với nhau và không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết cho tôi được ly hôn chị Phạm Thị T.
- Về con chung: Tôi và chị T có 01 con chung là cháu Nguyễn Tú Q sinh ngày 21/8/2013 hiện cháu đang ở với tôi. Ly hôn tôi đề nghị được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản:Tôi và chị T không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 17/2020/HNGĐ-ST ngày 20/03/2020 của TAND tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Số bản án: 17/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 20/03/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: anh Nguyễn Thế A trình bày:
-Về quan hệ vợ chồng: Tôi và chị Phạm Thị T kết hôn vào ngày 26/3/2013 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường X, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn chị T về chung sống cùng gia đình tôi. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không còn tình cảm với nhau. Đến năm 2016 thì chị T đi lao động tại Nhật Bản kể từ đó đến nay vợ chồng ít liên lạc với nhau và không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết cho tôi được ly hôn chị Phạm Thị T.
- Về con chung: Tôi và chị T có 01 con chung là cháu Nguyễn Tú Q sinh ngày 21/8/2013 hiện cháu đang ở với tôi. Ly hôn tôi đề nghị được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản:Tôi và chị T không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.