Bản án số 16/2021/HNGĐ-ST ngày 20/08/2021 của TAND huyện Đắk G'Long, tỉnh Đắk Nông về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Số bản án: 16/2021/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 20/08/2021
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND huyện Đắk G'Long, tỉnh Đắk Nông
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Chị và anh T là vợ chồng có đăng ký kết hôn
nhưng đã ly hôn theo Bản án số 07/2018/HNGĐ - ST, ngày 15-5-2018 của Tòa án
nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông. Khi giải quyết quan hệ hôn nhân với
anh T, chị không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung. Do giữa chị và
anh T không thể tự giải quyết tài sản chung và phát sinh tranh chấp nên chị làm đơn
khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung trong thời kỳ
hôn nhân giữa chị và anh T gồm:
Về tài sản chung: 01 thửa đất với diện tích 200m2 (ngang mặt đường quốc lộ
28 là 10m) tọa lạc tại Bon N’Đ, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, đất đã được Ủy ban
nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 010770, thửa đất
số 560, tờ bản đồ số 01, cấp ngày 14-5-2012. Nguồn gốc diện tích đất do gia đình
chị nhận chuyển nhượng năm 2012 từ gia đình anh C, chị H
01 thửa đất rẫy với diện tích khoảng 6,5ha, trên đất trồng cà phê và cây ăn
trái, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vị trí đất tại Cụm 15,
xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, hiện nay anh T đang quản lý, sử dụng. Nguồn gốc
diện tích đất do gia đình chị nhận chuyển nhượng từ anh Nguyễn Duy T, anh
Vương Văn H, ông K’K và ông K’Đ.
Về nợ chung: Nợ gia đình chị Lâm Thị H, anh Phùng Hải H số tiền
230.000.000đ, vay năm 2019, mục đích vay để đáo hạn ngân hàng; nợ bà Lê Thị H
số tiền 40.000.000đ và chị Nguyễn Thị S số tiền 130.000.000đ. Tất cả các khoản
vay trên vì là người nhà trong gia đình nên khi vay chỉ nói miệng, không lập giấy
vay. Đối với tài sản chung và nợ chung, chị yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy
định của pháp luật, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, chị P thay đổi yêu
cầu khởi kiện, chị đồng ý với ý kiến của anh T về việc chia tài sản chung và nợ
chung, cụ thể: Đối với tài sản chung là 01 lô đất tại bon N’Đ, xã Q chia mỗi người
½, chia cho chị P phần có căn nhà để ở và nuôi con; lô đất rẫy giao cho anh T quản
lý, sử dụng; phần nợ gia đình chị Lâm Thị H (là em gái chị P) chị P chịu trách
nhiệm trả; nợ bà H và chị S (là người nhà anh T) do anh T chịu trách nhiệm trả.
Phần tài sản chung của ai được chia được hưởng giá trị nhiều hơn thì phải hoàn lại
giá trị thành tiền cho người được hưởng giá trị ít hơn.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 16/2021/HNGĐ-ST ngày 20/08/2021 của TAND huyện Đắk G'Long, tỉnh Đắk Nông về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Số bản án: 16/2021/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 20/08/2021
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND huyện Đắk G'Long, tỉnh Đắk Nông
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Chị và anh T là vợ chồng có đăng ký kết hôn
nhưng đã ly hôn theo Bản án số 07/2018/HNGĐ - ST, ngày 15-5-2018 của Tòa án
nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông. Khi giải quyết quan hệ hôn nhân với
anh T, chị không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung. Do giữa chị và
anh T không thể tự giải quyết tài sản chung và phát sinh tranh chấp nên chị làm đơn
khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung trong thời kỳ
hôn nhân giữa chị và anh T gồm:
Về tài sản chung: 01 thửa đất với diện tích 200m2 (ngang mặt đường quốc lộ
28 là 10m) tọa lạc tại Bon N’Đ, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, đất đã được Ủy ban
nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 010770, thửa đất
số 560, tờ bản đồ số 01, cấp ngày 14-5-2012. Nguồn gốc diện tích đất do gia đình
chị nhận chuyển nhượng năm 2012 từ gia đình anh C, chị H
01 thửa đất rẫy với diện tích khoảng 6,5ha, trên đất trồng cà phê và cây ăn
trái, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vị trí đất tại Cụm 15,
xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, hiện nay anh T đang quản lý, sử dụng. Nguồn gốc
diện tích đất do gia đình chị nhận chuyển nhượng từ anh Nguyễn Duy T, anh
Vương Văn H, ông K’K và ông K’Đ.
Về nợ chung: Nợ gia đình chị Lâm Thị H, anh Phùng Hải H số tiền
230.000.000đ, vay năm 2019, mục đích vay để đáo hạn ngân hàng; nợ bà Lê Thị H
số tiền 40.000.000đ và chị Nguyễn Thị S số tiền 130.000.000đ. Tất cả các khoản
vay trên vì là người nhà trong gia đình nên khi vay chỉ nói miệng, không lập giấy
vay. Đối với tài sản chung và nợ chung, chị yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy
định của pháp luật, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, chị P thay đổi yêu
cầu khởi kiện, chị đồng ý với ý kiến của anh T về việc chia tài sản chung và nợ
chung, cụ thể: Đối với tài sản chung là 01 lô đất tại bon N’Đ, xã Q chia mỗi người
½, chia cho chị P phần có căn nhà để ở và nuôi con; lô đất rẫy giao cho anh T quản
lý, sử dụng; phần nợ gia đình chị Lâm Thị H (là em gái chị P) chị P chịu trách
nhiệm trả; nợ bà H và chị S (là người nhà anh T) do anh T chịu trách nhiệm trả.
Phần tài sản chung của ai được chia được hưởng giá trị nhiều hơn thì phải hoàn lại
giá trị thành tiền cho người được hưởng giá trị ít hơn.