Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN

HUYỆN GÒ CÔNG TÂY TỈNH TIỀN GIANG

Bản án số: 16/2021/DS - ST Ngày: 19/01/2021

V/v: “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

NHÂN DANH

NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đặng Thị Thanh Trinh.

Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lê Văn Nhiệm.

Trần Thu Hồng.

  • Thƣ ký phiên tòa: Bà Trần Thị Ngọc Thúy - Thư ký Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Tây tham gia phiên toà:

ông Đoàn Khắc Huy– Kiểm sát viên.

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 317/2020/TLST-DS ngày 19 tháng 11 năm 2020 về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: Võ Kim Q, sinh năm 1980. Địa chỉ: ấp A, xã V, huyện G, tỉnh T.

*Bị đơn: Võ Thanh T, sinh năm 1964.

Địa chỉ: ấp T, xã V, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

(Anh Q có mặt; ông T có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải nguyên đơn anh Võ Kim Q trình bày:

Từ năm 2016 đến năm 2019 anh Q có bán cho ông Võ Thanh T thức ăn để nuôi heo và bò, từ đầu năm 2019 cho đến nay ông T không còn mua thức ăn của anh Q nữa nhưng ông T còn nợ lại anh Q số tiền mua thức ăn là 58.000.000 đồng. Từ đầu năm 2020 cho đến nay, anh Q có đòi nhưng ông T không trả mà chỉ trả cho anh Q được

5.000.000 đồng, hiện nay ông T còn nợ lại anh Q số tiền là 53.000.000 đồng.

Nay anh Q yêu cầu ông Võ Thanh T trả cho anh Q số tiền còn nợ là 53.000.000 đồng, trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu tính lãi.

  • Tại Biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải bị đơn ông Võ Thanh T trình

    bày:

    Ông T thống nhất lời trình bày của anh Võ Kim Q về số tiền nợ, từ năm 2016 đến năm 2019 ông T có mua của anh Võ Kim Q thức ăn để nuôi vịt và heo Từ đầu năm 2019 cho đến nay, ông T không còn mua thức ăn của anh Q nữa, hiện nay ông T còn nợ lại anh Q số tiền mua thức ăn là 58.000.000 đồng. Từ đầu năm 2020 cho đến nay, ông T có trả tiếp cho anh Q được 5.000.000 đồng. Hiện nay ông T còn nợ lại anh Q số tiền là 53.000.000 đồng.

    Nay anh Q yêu cầu ông T trả số tiền còn nợ là 53.000.000 đồng, trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu tính lãi thì ông T đồng ý trả số tiền còn nợ là

    53.000.000 đồng nhưng xin trả dần mỗi tháng là 1.000.000 đồng (một triệu đồng), trả cho đến khi nào trả hết nợ.

  • Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân thủ đúng quy định pháp luật.

Về việc giải quyết vụ kiện: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 430, 440 Bộ luật dân sự, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra cũng như tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

  1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Quan hệ tranh chấp giữa anh Võ Kim Q và ông Võ Thanh T là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 430 Bộ luật dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

  2. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu ông Võ Thanh T trả số tiền 53.000.000 đồng là có cơ sở, bởi lẽ giữa anh Q, ông T có xác lập hợp đồng mua bán như lời trình bày của các đương sự và phù hợp với lời khai của ông T tại Biên bản lấy lời khai đương sự ngày 25/12/2020. Nguyên đơn anh Q yêu cầu ông T trả số tiền còn nợ 53.000.000 đồng, trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật, ông T đồng ý trả số tiền 53.000.000 đồng nhưng xin trả dần mỗi tháng

    1.000.000 đồng (một triệu đồng) cho đến khi hết nợ do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, yêu cầu xin trả dần của ông T không được anh Q đồng ý, việc xin trả dần của ông T là kéo dài thời gian trả nợ, gây thiệt thòi quyền lợi cho anh

    Q. Do đó, Hội đồng xét xử cần buộc ông T có nghĩa vụ trả cho anh Q số tiền

    53.000.000 đồng khi án có hiệu lực pháp luật là phù hợp với Điều 440 Bộ luật dân sự.

  3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Do toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Q được chấp nhận nên ông T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 của Nghị quyết số

326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

  • Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

  • Áp dụng Điều 430, Điều 440 Bộ luật dân sự 2015;

  • Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Võ Kim Q.

Buộc ông Võ Thanh T có nghĩa vụ trả cho anh Võ Kim Q số tiền là

53.000.000 đồng (Năm mươi ba triệu đồng). Thời gian trả khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của anh Q cho đến khi thi hành án xong, ông T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

* Về án phí dân sự sơ thẩm:

+ Ông Võ Thanh T phải chịu số tiền 2.650.000 đồng (Hai triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

+ Hoàn lại cho anh Võ Kim Q số tiền 1.325.000 đồng (Một triệu ba trăm hai mươi lăm ngàn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0016990 ngày 19/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các đương sự có quyền kháng cáo Bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự./

* Nơi nhận:

  • TAND tỉnh Tiền Giang;

  • VKSND huyện Gò Công Tây;

  • Chi cục THADS huyện Gò Công Tây;

  • Ñöông söï;

    TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

    Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

  • Löu hoà sô. Đặng Thị Thanh Trinh

THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Về nội dung: Tại phiên tòa, chị Huyền xin ly hôn, nguyên nhân do anh Tiến có nhiều bất đồng trong cuộc sống vợ chồng, anh Tiến bảo chị nghỉ việc ở Sài Gòn về quê bên nhà của anh Tiến để làm, anh Tiến bỏ chị ra ngoài sống riêng 02 lần, không cần sự đồng ý của chị. Ngoài ra, chị và anh Tiến hay cải vả, gây gỗ về vấn đề tiền bạc. Từ tháng 10/2016 đến nay anh Tiến đã bỏ chị về sống với cha mẹ anh, không còn quan tâm gì đến chị nữa nên anh chị đã ly thân từ tháng 10/2016 đến nay. Nay, chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã rất trầm trọng, chị và anh Tiến không còn tình cảm với nhau, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu ly hôn với anh Tiến. Tại biên bản hòa giải và tại phiên tòa, anh Tiến thừa nhận mâu thuẫn chị Huyền trình bày là có nhưng do vợ cố chấp, vợ tự động bắt con đi mà không hỏi ý kiến của ai, anh bỏ đi 03 lần là để vợ nhận ra cái sai của mình.

Xét thấy mâu thuẫn ban đầu không lớn nhưng anh chị không khắc phục được để kéo dài làm ảnh hưởng đến hạnh phúc vợ chồng dẫn đến mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn được nên anh chị đã ly thân từ tháng 10/2016 đến nay, anh Tiến thừa nhận những mâu thuẫn mà chị Huyền trình bày là có nhưng anh không có biện pháp hàn gắn tình cảm, trong thời gian ly thân cũng như trong thời gian Tòa án hòa giải đoàn tụ, anh cũng không chủ động hàn gắn với

chị Huyền. Hơn nữa, trong thời gian chuẩn bị xét xử, Tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ cũng không có kết quả. Anh Tiến không đồng ý ly hôn, anh đưa ra thời gian để hàn gắn đến cuối năm 2017 nhưng với điều kiện chị Huyền thay đổi thì anh sẽ thay đổi. Lời trình bày nêu trên cho thấy anh Tiến cho thấy anh không còn tha thiết gì đến tình cảm vợ chồng cũng như hạnh phúc gia đình. Xét thấy, mâu thuẫn giữa anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Huyền yêu cầu ly hôn với anh Tiến là hoàn toàn có căn cứ cần được chấp nhận phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên Đinh Ngọc Quỳnh Chi, sinh ngày 18/3/2015 hiện đang sống với anh Tiến, ông Tửu, bà Nga. Ly hôn, chị Huyền yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Chi; không yêu cầu anh Tiến cấp dưỡng nuôi con. Anh Tiến cũng yêu cầu được nuôi cháu Chi; không yêu cầu chị Huyền cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu được nuôi con của chị Huyền là có cơ sở bởi cháu Quỳnh Chi, sinh ngày 18/3/2015 đến nay cháu mới hơn 02 tuổi, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Con dưới 36”. Mặc khác, Hội đồng xét xử cũng xem xét đến điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Chi của anh chị cũng như có xem xét đến hoàn cảnh, môi trường sống của cháu Chi để xét yêu cầu nuôi con của anh Tiến, chị Huyền. Từ nhận định nêu trên, cần giao cháu Quỳnh Chi cho chị Huyền nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.

Tuy nhiên, cháu Quỳnh Chi hiện đang sống với anh Tiến, vì công việc nên ông Đinh Văn Tửu và bà Nguyễn Thị Nga là ông bà nội của cháu trực tiếp nuôi dưỡng. Do cháu Quỳnh Chi được giao cho chị Huyền nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử cần buộc anh Tiến, ông Tửu, bà Nga giao cháu Quỳnh Chi cho chị Huyền trực tiếp nuôi dưỡng, giao ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con, do chị Huyền không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trình bày, anh Tiến thừa nhận những mâu thuẫn mà chị Huyền trình bày, anh xin đến cuối năm 2017 sẽ đoàn tụ nhưng chị Huyền cũng phải sửa đổi thì anh sẽ sửa đổi để hàn gắn như vậy, anh Tiến không có thiện chí trong việc vợ chồng đoàn tụ. Xét thấy, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Huyền. Về con chung, chị Huyền tha thiết được nuôi dưỡng cháu Quỳnh Chi, chị có đủ điều kiện để được nuôi cháu Chi tốt nhất, hiện chị đang công tác tại Chi cục thuế quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh, có thu nhập và nơi ở ổn định, hơn nữa cháu Quỳnh Chi, sinh ngày 18/3/2015 hơn 02 tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Huyền được nuôi dưỡng cháu Quỳnh Chi, không yêu cầu anh Tiến cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: chị Huyền, anh Tiến khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Huyền phải chịu án phí theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

  • Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

    Xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thu Huyền.

  • Về tình cảm: Cho chị Nguyễn Thị Thu Huyền được ly hôn với anh Đinh Nguyễn Nhật Tiến.

  • Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Thu Huyền được nuôi dưỡng con chung tên Đinh Ngọc Quỳnh Chi, sinh ngày 18/3/2015. Chị Huyền không yêu cầu anh Tiến cấp dưỡng nuôi con.

Buộc anh Đinh Nguyễn Nhật Tiến, ông Đinh Văn Tửu và bà Nguyễn Thị Nga có nghĩa vụ giao cháu Quỳnh Chi cho chị Huyền nuôi dưỡng, giao ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.

- Về án phí HNST:

Chị Nguyễn Thị Thu Huyền phải chịu số tiền 300.000đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng chị được trừ vào số tiền tạm ứng 300.000đồng theo biên lai số 34889 ngày 13/2/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Gạo. Như vậy, chị Huyền đã nộp xong.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng ông Tửu kháng cáo kể từ ngày Tòa án tống đạt hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Án tuyên và kết thúc cùng ngày./.

* Nơi nhận:

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

  • TAND tỉnh TG;

  • VKSND huyeän Chợ Gạo;

  • C.c. THADS huyện CG ;

  • Ñöông söï (ñeå thi haønh);

  • UBND xã Anh Thạnh Thủy;.

  • Löu hoà sô.

Phan Thanh Bình

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 16/2021/DS-ST của TAND huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

  • Số bản án: 16/2021/DS-ST
  • Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 19/01/2021
  • Loại vụ/việc: Dân sự
  • Tòa án xét xử: TAND huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận yêu cầu khởi khởi kiện nguyên đơn
Tải về bản án