Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG TỈNH LẠNG SƠN

–––––––––––––––

Bản án số: 15/2020/HS-ST Ngày 17 - 4 - 2020

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

  • Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Hoàng Thị Tuyết.

    Các Hội thẩm nhân dân: Ông Đặng Xuân Tuấn và ông Ninh Ngọc Tú.

  • Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Mai, Thư ký Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.

  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tuyên - Kiểm sát viên.

Ngày 17 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2020, Thông báo thay đổi thời gian xét xử số: 01/2020/TB-TA ngày 20/3/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2020/HSST-QĐ ngày 07/4/2020 đối với bị cáo:

Lưu Văn T, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1989 tại huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Nơi cư trú: Thôn G, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 09/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Văn D và bà Hoàng Thị C; vợ: Lạc Thị N, sinh năm 1994; con: Có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không có.

Nhân thân: Có 02 tiền án, ngày 28/5/2012 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 02 năm tù về tội Cố ý gây thương tích, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2013. Ngày 13/8/2015, Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 05 tháng tù về tội đánh bạc, phạt bổ sung 4.000.000đ. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/01/2016, ngày 11/12/2019 chấp hành xong hình phạt bổ sung; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hữu Lũng từ ngày 27/12/2019 đến ngày 20/01/2020 thay thế bằng biện pháp cho bảo lĩnh. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

  1. Anh Hoàng Văn C, sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

  2. Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1992. Địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

  3. Anh Nông Văn N, sinh năm 1990. Địa chỉ Thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

  4. Anh Hoàng Quốc H, sinh năm 1990. Địa chỉ Thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

  5. Anh Hoàng Văn C1, sinh năm 1989. Địa chỉ Thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

  6. Anh Nông Văn S, sinh năm 1985. Địa chỉ Thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

  7. Anh Hoàng Văn V, sinh năm 1995. Địa chỉ Thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

  8. Anh Triệu Văn H, sinh năm 1998. Địa chỉ Thôn V, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

  9. Anh Triệu Văn C, sinh năm 1999. Địa chỉ Thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

  10. Anh Nông Văn C, sinh năm 1985. Địa chỉ Thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

  11. Anh Hoàng Văn K, sinh năm 1985. Địa chỉ Thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

  12. Anh Nông Văn T, sinh năm 1971. Địa chỉ Thôn L, xã V, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20h35’ ngày 09/12/2019 tại nhà bếp của Nông Văn C, sinh năm 1985, ở thôn Đ, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn bắt quả tang vụ đánh bạc dưới hình thức đánh xóc đĩa được thua bằng tiền.

  • Bắt tại nơi đánh bạc: Hoàng Văn K, Triệu Văn C, Nông Văn S, Hoàng Văn C1 ở tại thôn Đ, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; Triệu Văn H ở thôn V, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; Hoàng Văn V ở thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; Nông Văn T ở thôn L, xã V, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.

  • Thu tại nơi đánh bạc: Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1.050.000đ; 01 chiếc chiếu cói kích thước 1,8m x 1,6m; 01 bát sứ + 01 đĩa sứ + 04 quân vị hình tròn đường kính 01cm (làm bằng vỏ bao thuốc lá Thăng Long).

  • Thu trên người những người bị bắt quả tang:

    + Hoàng Văn K, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A38, màu trắng đen.

    + Triệu Văn H, 30.000đ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A39.

    + Triệu Văn C, 70.000đ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu COOLPAD E503.

    + Hoàng Văn V, 10.000đ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S.

    + Nông Văn S, 20.000đ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280.

    + Hoàng Văn C1, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37.

    + Nông Văn T, 710.000đ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A33.

    Ngày 10/12/2019, Nông Văn N, sinh ngày 19/02/1992 ở Thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn đến Công an huyện Hữu Lũng đầu thú và giao nộp 50.000đ là tiền N dùng tham gia đánh bạc khi Công an bắt quả tang bỏ chạy cầm theo số tiền trên.

    Quá trình điều tra làm rõ: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 09/12/2019, sau khi ăn cỗ cưới của Nông Văn Đ (em Nông Văn C), Hoàng Văn C, sinh năm 1991 ở thôn H, xã C, huyện H đã rủ mọi người đánh bạc, C đi vào bếp nhà Nông Văn C chuẩn bị 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị cắt bằng vỏ bao thuốc lá Thăng Long và lấy chiếu nhà Nông Văn C ra trải để mọi người đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa.

    Hoàng Văn C là người cầm cái, những người tham gia đánh bạc ban đầu gồm có Nguyễn Văn B, Nông Văn N, Hoàng Quốc H ở thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày có Hoàng Văn C1, Nông Văn S, Hoàng Văn V, Lưu Văn T, Triệu Văn H, Triệu Văn C ở thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn vào tham gia đánh bạc, Nông Văn T và Hoàng Văn K ngồi cạnh xem đánh bạc.

    Bị cáo Lưu Văn T đã cùng những người khác đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa như sau: Người xóc đĩa (còn gọi là người cầm cái) ngồi ở đầu một chiếu, quy định người đánh bạc ngồi ở bên tay phải người cầm cái là cửa chẵn, người ngồi bên tay trái là của lẻ. Khi bắt đầu một ván bạc, người cầm cái cho 4 quân vị (được làm bằng vỏ bao thuốc lá Thăng Long cắt hình tròn, một mặt trắng, một mặt vàng) vào trong một chiếc đĩa và úp bát lên rồi xóc. Khi xóc xong thì đặt xuống chiếu, những người đánh bạc đặt tiền theo cửa chẵn hoặc cửa lẻ, tối thiểu từ 10.000đ trở lên. Sau khi đặt tiền xong, người cầm cái mở bát ra, nếu quân trong đĩa là số chẵn thì những người đặt cửa chẵn thắng tiền, cửa lẻ thua tiền và ngược lại. Chẵn là khi có cả bốn quân vị cùng màu hoặc hai quân trắng, hai quân vàng. Lẻ là có ba quân vàng và một quân trắng hoặc ngược lại. Người cầm cái sẽ lấy tiền của người thua trả cho người thắng, tỷ lệ là 01 ăn 01, còn thửa thì người cầm cái được hưởng, nếu thiếu thì bỏ tiền ra bù.

    Quá trình đánh bạc Hoàng Văn C, Hoàng Quốc H thua hết tiền không tham gia đánh bạc nữa đi về trước, Nguyễn Văn B tiếp tục xóc cái đánh bạc cùng mọi người được một lúc thì chuyển cho Nông Văn N xóc cái đánh bạc đến 20h30’ cùng ngày thì bị bắt quả tang, bắt được những người đang đánh bạc và xem đánh bạc,

    riêng Nông Văn N và Lưu Văn T chạy thoát đã đi khỏi địa phương, đến ngày 27/12/2019 bị bắt.

    Quá trình điều tra làm rõ số tiền dùng đánh bạc là 1.910.000đ, trong đó Hoàng Văn C sử dụng 120.000đ, Nguyễn Văn B 400.000đ, Triệu Văn H 130.000đ, Triệu Văn C 70.000đ, Hoàng Văn V 150.000đ, Nông Văn S 70.000đ, Hoàng Văn C1 470.000đ, Nông Văn N 50.000đ, Hoàng Quốc H 50.000đ, Lưu Văn T 400.000đ. Khi bắt quả tang thu giữ được 1.180.000đ gồm tiền thu tại chiếu bạc và tiền thu trên người Triệu Văn H, Triệu Văn C, Hoàng Văn V, Nông Văn S, riêng Nông Văn N cầm theo 50.000đ chạy thoát sau đó đã giao nộp, số tiền còn lại là 680.000đ Lưu Văn T cầm theo khi bỏ chạy đã vứt trong bếp nhà Nông Văn C, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thu giữ được.

    Những vật chứng đã thu giữ và làm rõ:

  • Vật chứng dùng vào việc đánh bạc gồm có: Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1.230.000đ; 01 chiếc chiếu cói; 01 bát sứ; 01 đĩa sứ; 04 quân vị.

  • Vật chứng đã thu không dùng vào việc đánh bạc gồm có: 05 điện thoại di động của Triệu Văn H, Triệu Văn C, Hoàng Văn V, Nông Văn S, Hoàng Văn C1.

  • Vật chứng dùng đánh bạc không thu giữ được 680.000đ Lưu Văn T cầm theo khi bỏ chạy đã vứt trong bếp nhà Nông Văn C.

    Vật chứng đã thu giữ không liên quan đến hành vi đánh bạc gồm có: 710.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A33 của Nông Văn T; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Oppo A38, màu trắng đen của Hoàng Văn K.

    Quá trình điều tra đã chứng minh số tiền Lưu Văn T và những người khác dùng đánh bạc là 1.910.000đ, tuy nhiên Lưu Văn T đã có 01 tiền án, ngày 13/8/2015, Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 05 tháng tù về tội danh đánh bạc, phạt bổ sung 4.000.000đ. Bị cáo chấp hành xong hình phạt từ ngày 29/01/2016 đến ngày 11/12/2019 mới chấp hành xong hình phạt bổ sung.

    Đối với Hoàng Văn C, Nông Văn B, Nông Văn N, Hoàng Quốc H, Hoàng Văn C1, Nông Văn S, Hoàng Văn V, Triệu Văn H, Triệu Văn C tham gia đánh bạc, Nông Văn C biết các đối tượng và cho sử dụng nhà bếp để mọi người đánh bạc nhưng số tiền dùng để đánh bạc không đủ định lượng để cấu thành tội phạm, nhân thân của những người này không có tiền án, tiền sự liên quan đến hành vi đánh bạc nên Công an huyện Hữu Lũng ra quyết định xử phạt hành chính.

    Tại bản Cáo trạng số 15/CT-VKSHL-HS ngày 10 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lưu Văn T về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

    Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lưu Văn T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.

    Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, rút quyết định áp dụng bị cáo có 01 tiền án và chuyển sang phần nhân thân bị cáo đã

    từng có 02 tiền án, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lưu Văn T phạm tội Đánh bạc và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2019 đến ngày 20/01/2020 là 25 ngày. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

    Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

  • Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếu cói kích thước 1,6m x 1,8m; 01 bát sứ đường kính miệng 10cm; 01 đĩa sứ đường kính 20cm; 04 quân cái hình tròn đường kính 1cm, có một mặt màu trắng, một mặt màu vàng.

  • Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 1.230.000đ.

  • Trả lại cho anh Triệu Văn H, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A39, màu xám bạc, đã qua sử dụng số IMEI1:278392; IMEI2:278384.

  • Trả lại cho anh Triệu Văn C, 01 điện thoại di động nhãn hiệu COOLPAD E503, màu đồng, đã qua sử dụng, số IMEI1:475404, số IMEI2:484364.

  • Trả lại cho anh Hoàng Văn V, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S,màu đồng, đã qua sử dụng, số IMEI: 4011995.

  • Trả lại cho anh Nông Văn S, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu xanh, đã qua sử dụng, số IMEI:40046719.

  • Trả lại cho anh Hoàng Văn C1, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37 màu đồng, đã qua sử dụng, số IMEI1:588336, IMEI2:588328.

  • Trả lại cho anh Nông Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A33W, màu trắng, đã qua sử dụng và số tiền 710.000đ (bảy trăm mười nghìn đồng).

  • Trả lại cho Hoàng Văn K 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A38, màu trắng đen, đã qua sử dụng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng bị cáo trình bày đã ăn năn hối cải xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

  1. Tại phiên tòa, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Văn C, anh Nguyễn Văn B, anh Nông Văn N, anh Hoàng Quốc H, anh Hoàng Văn C1, anh Nông Văn S, anh Hoàng Văn V, anh Triệu Văn H, anh Triệu Văn C, anh Nông Văn C, anh Nông Văn K, anh Nông Văn T vắng mặt, tuy nhiên, lời khai của những người vắng mặt tại cơ quan điều tra đã rõ, việc vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử do đó căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

  2. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy

    định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có ai có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thực hiện đều hợp pháp.

  3. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 09 tháng 12 năm 2019, tại Thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng bắt quả tang vụ đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa, những người tham gia đánh bạc gồm có: Hoàng Văn C, Nguyễn Văn B, Nông Văn N, Lưu Văn T, Hoàng Quốc H, Hoàng Văn C1, Nông Văn S, Hoàng Văn V, Triệu Văn H, Triệu Văn C. Số tiền bị cáo Thời cùng những người khác dùng đánh bạc là 1.910.000đ, trong số những người tham gia đánh bạc, bị cáo Lưu Văn T đã có 01 tiền án về tội đánh bạc, chưa được xóa án tích, các đối tượng tham gia đánh bạc khác không có tiền án, tiền sự. Hành vi của bị cáo Thời đã đủ yếu tố cấu thành tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

  4. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, ảnh hưởng không tốt đến trật tự trị an trên địa bàn. Để bảo vệ trật tự công cộng, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa cần phải xử lý nghiêm bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

  5. Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo như trên, nhận thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

  6. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 02 tiền án nên có nhân thân không tốt. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

  7. Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

  8. Trong vụ án có Hoàng Văn C, Nông Văn Bách, Nông Văn N, Hoàng Quốc H, Hoàng Văn C1, Nông Văn S, Hoàng Văn V, Triệu Văn H, Triệu Văn C tham gia đánh bạc, Nông Văn C biết các đối tượng và cho sử dụng nhà bếp để mọi người đánh bạc nhưng số tiền dùng để đánh bạc không đủ định lượng để cấu thành tội phạm, nhân thân của những người này không có tiền án, tiền sự liên quan đến hành vi đánh bạc nên Công an huyện Hữu Lũng ra quyết định xử phạt hành chính là phù hợp.

  9. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình

    sự.

  10. Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếu cói kích thước 1,6m x 1,8m; 01 bát sứ đường

    kính miệng 10cm; 01 đĩa sứ đường kính 20cm; 04 quân cái hình tròn đường kính 1cm, có một mặt màu trắng, một mặt màu vàng.

  11. Trả lại cho anh Triệu Văn H, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A39, màu xám bạc, đã qua sử dụng số IMEI1:278392; IMEI2:278384.

  12. Trả lại cho anh Triệu Văn C, 01 điện thoại di động nhãn hiệu COOLPAD E503, màu đồng, đã qua sử dụng, số IMEI1:475404, số IMEI2:484364.

  13. Trả lại cho anh Hoàng Văn V, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S,màu đồng, đã qua sử dụng, số IMEI: 4011995.

  14. Trả lại cho anh Nông Văn S, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu xanh, đã qua sử dụng, số IMEI:40046719.

  15. Trả lại cho anh Hoàng Văn C1, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37 màu đồng, đã qua sử dụng, số IMEI1:588336, IMEI2:588328.

  16. Trả lại cho anh Nông Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A33W, màu trắng, đã qua sử dụng và số tiền 710.000đ (bảy trăm mười nghìn đồng) tại phong bì thư ký hiệu “Số 06” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 710.000đ Nông Văn T”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 710.000đ (Bảy trăm mười nghìn đồng).

  17. Trả lại cho anh Hoàng Văn K 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A38, màu trắng đen, đã qua sử dụng.

  18. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 1.230.000đ trong 07 bì thư được niêm phong gồm các phong bì thư số 01, 02, 03, 04, 05, 07, 08, cụ thể:

    • 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 01” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 600.000đ trên chiếu”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng).

    • 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 02” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 450.000đ cạnh chiếu”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 450.000đ (bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

    • 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 03” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 30.000đ Triệu Văn H”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định

      gồm 30.000đ (ba mươi nghìn đồng).

    • 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 04” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 70.000đ Triệu Văn C”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 70.000đ (bảy mươi nghìn đồng).

    • 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 05” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 10.000đ Hoàng Văn V”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 10.000đ (mười nghìn đồng).

    • 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 07” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 20.000đ Nông Văn S”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 20.000đ (hai mươi nghìn đồng).

    • 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 08” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 50.000đ Nông Văn N”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 50.000đ (năm mươi nghìn đồng).

  19. Đối với số tiền 680.000đ (sáu trăm tám mươi nghìn đồng) là tiền đánh bạc bị cáo Lưu Văn T cầm theo khi bỏ chạy sau đó đã vứt trong bếp nhà Nông Văn C. Do không tìm thấy nên không đề cập giải quyết.

  20. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51;; Điều 50; Điều 38; điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

  1. Tuyên bố bị cáo Lưu Văn T phạm tội Đánh bạc.

  2. Xử phạt bị cáo Lưu Văn T 06 (sáu) tháng tù, tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2019 đến ngày 20/01/2020 là 25 ngày, nay bị cáo còn phải chấp hành 05 (năm) tháng 05 (năm) ngày.

    Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

  3. Về xử lý vật chứng

    • Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếu cói kích thước 1,6m x 1,8m; 01 bát sứ đường kính miệng 10cm; 01 đĩa sứ đường kính 20cm; 04 quân cái hình tròn đường kính 1cm, có một mặt màu trắng, một mặt màu vàng.

    • Trả lại cho anh Triệu Văn H, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A39, màu xám bạc, đã qua sử dụng số IMEI1:278392; IMEI2:278384.

    • Trả lại cho anh Triệu Văn C, 01 điện thoại di động nhãn hiệu COOLPAD E503, màu đồng, đã qua sử dụng, số IMEI1:475404, số IMEI2:484364.

    • Trả lại cho anh Hoàng Văn V, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S,màu đồng, đã qua sử dụng, số IMEI: 4011995.

    • Trả lại cho anh Nông Văn S, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu xanh, đã qua sử dụng, số IMEI:40046719.

    • Trả lại cho anh Hoàng Văn C1, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37 màu đồng, đã qua sử dụng, số IMEI1:588336, IMEI2:588328.

    • Trả lại cho anh Nông Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A33W, màu trắng, đã qua sử dụng và số tiền 710.000đ (bảy trăm mười nghìn đồng) tại phong bì thư ký hiệu “Số 06” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 710.000đ Nông Văn T”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 710.000đ (Bảy trăm mười nghìn đồng).

    • Trả lại cho Hoàng Văn K 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A38, màu trắng đen, đã qua sử dụng.

    • Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 1.230.000đ trong 07 bì thư được niêm phong gồm các phong bì thư số 01, 02, 03, 04, 05, 07, 08, cụ thể:

      + 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 01” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 600.000đ trên chiếu”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng).

      + 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 02” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 450.000đ cạnh chiếu”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 450.000đ (bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

      + 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 03” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 30.000đ Triệu Văn H”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 30.000đ (ba mươi nghìn đồng).

      + 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 04” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 70.000đ Triệu Văn C”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 70.000đ (bảy mươi nghìn đồng).

      + 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 05” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 10.000đ Hoàng Văn V”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 10.000đ (mười nghìn đồng).

      + 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 07” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 20.000đ Nông Văn S”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 20.000đ (hai mươi nghìn đồng).

      + 01 (một) phong bì thư ký hiệu “Số 08” được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi “Số tiền 50.000đ Nông Văn N”, tại vị trí niêm phong sau giám định có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm 50.000đ (năm mươi nghìn đồng).

      (Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/3/2020 giữa Công an huyện Hữu Lũng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn)

  4. Về án phí: Buộc bị cáo Lưu Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nơi nhận:

  • TAND tỉnh Lạng Sơn;

  • VKSND tỉnh Lạng Sơn;

  • Sở Tư pháp tỉnh Lạng Sơn;

  • VKSND huyện Hữu Lũng;

  • Công an huyện Hữu Lũng;

  • Cơ quan THAHS Công an huyện Hữu Lũng;

  • Chi cục THADS huyện Hữu Lũng;

  • Bị cáo; Người TGTT;

  • Lưu hồ sơ vụ án.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

(đã ký)

Hoàng Thị Tuyết

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 15/2020/HS-ST ngày 17/04/2020 của TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn

  • Số bản án: 15/2020/HS-ST
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 17/04/2020
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Lưu Văn T, đánh bạc
Tải về bản án