TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ TỈNH ĐỒNG NAI Bản án số: 155/2022/HSST Ngày: 18/4/2022 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Tám Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trần Văn Chánh Bà Thiều Thị Phi Loan
Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung- Thư ký TAND Thành phố B, tỉnh Đ.
Đại diện Viện Viểm sát nhân dân thành phố B tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Quỳnh- Kiểm sát viên.
Hôm nay, ngày 18 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. B mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 111/2022/HSST ngày 14 tháng 3 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 138/2022/QĐXXST-HS ngày 01/4/2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: TVC; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 22 tháng 3 năm 2001 tại tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký thường trú: Xóm 7, xã C, huyện H, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 11/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: TVL, sinh năm 1962 (còn sống) và bà HTL, sinh năm 1967 (còn sống). Gia đình có 03 anh em, bị can là con thứ ba và chưa có vợ, con.
Bị can bị bắt tạm giam theo lệnh số 1195 ngày 16/01/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.
(Bị cáo có mặt tại phiên toà)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
TVC là người sử dụng trái phép chất ma túy. C làm nhân viên trông giữ xe tại tiệm game bắn cá, tại tổ 14A, khu phố 2, phường Bình Đa, thành phố B, tỉnh Đ (do anh Nguyễn Văn Hà làm chủ).
Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 13/8/2019, C đang ngồi trông xe phía trước tiệm game bắn cá tại địa chỉ nêu trên thì nhặt được 01 gói nylon bên trong có chứa 02 mảnh vỡ của viên nén màu xanh dưới đất gần chỗ C ngồi, không rõ của ai. Do trước đó C đã nhiều lần sử dụng ma túy nên C biết rõ đó là ma túy tổng hợp (thuốc lắc), C nhặt gói ma túy trên cất giấu vào trong chiếc túi C đang đeo trên người, mục đích để sử dụng.
Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, khi lực lượng Công an phường Bình Đa đến kiểm tra hành chính tiệm game bắn cá, do sợ bị phát hiện cất giấu ma túy nên C ném gói ma túy trên xuống đất cách vị trí C đang ngồi khoảng 01m thì bị lực lượng Công an phát hiện thu giữ gói ma túy và đưa C về trụ sở làm việc. Công an phường Bình Đa đã lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý.
Tại Cơ quan điều tra, TVC khai nhận hành vi phạm tội như trên.
Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nylon chứa 02 miếng vỡ vụn từ viên nén màu xanh đã được niêm phong, có chữ ký của TVC và hình dấu mộc tròn của Công an phường Bình Đa.
Tại Kết luận giám định số 893/KLGĐ-PC09 ngày 16/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận: “Mẫu chất bột màu xanh dạng cục được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1409 gam, loại: MDMA”.
Tại bản cáo trạng số 134/CT/VKSBH ngày 08/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân TP. B đã truy tố bị cáo TVC về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo TVC về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo với mức án từ 14 tháng đến 18 tháng tù giam.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không nộp thêm tài liệu chứng cứ nào khác và đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Trong lời nói
sau cùng, bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận cáo trạng truy tố bị cáo là đúng sự thật, đúng người, đúng tội, bị cáo không có ý kiến gì đối với Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản tàng trữ trái phép chất ma tuý (Bút lục 74); Kết luận giám định (Bút lục số 14); Lời khai bị can (từ 44 đến 48, từ 51 đến 60); Lời khai của người chứng kiến (Bút lục số 62 đến 71). Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định: Vào lúc 21 giờ 10 phút ngày 13/8/2019, tại phía trước tiệm game bắn cá thuộc tổ 14A, khu phố 2, phường Bình Đa, thành phố B, tỉnh Đ, TVC đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1409 gam ma túy, loại MDMA thì bị Công an phường Bình Đa phát hiện thu giữ tang vật. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như sau:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
…
c) ... MDMA… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Về tính chất của vụ án: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma tuý nhưng vẫn cố ý tàng trữ ma tuý để sử
dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương và tiềm ẩn nguy cơ phát sinh các loại tội phạm khác, góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến đời sống cộng đồng. Do đó, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của bản thân, cũng như để giáo dục, răn đè, phòng ngừa chung.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tuy thời điểm mới bị phát hiện hành vi phạm tội, bị cáo khai báo không trung thực nhưng từ sau khi vụ án được phục hồi điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự nên căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước.
Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo TVC phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo TVC 01(một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2022.
Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định tại gói niêm phong số 893/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố B.
Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa
14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo TVC phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo TVC được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Lê Thị Tám |
Bản án số 155/2022/HSST ngày 18/04/2022 của TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
- Số bản án: 155/2022/HSST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 18/04/2022
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Tuyên bố TVT phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo TVC 01(một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2022.