TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ R TỈNH KIÊN GIANG Bản án số: 152/2022/HS-ST Ngày: 18-5-2022 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ R, TỈNH KIÊN GIANG
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đoàn Văn Thậm
Các Hội thẩm nhân dân: - Bà Đoàn Thị Liễu;
- Ông Trần Đăng Khoa.
Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Tú – Thư ký Tòa án nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố R tham gia phiên tòa: Ông- Kiểm sát viên.
Trong ngày 18 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 74/2022/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 137/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lê Khương Minh T, sinh ngày 01/5/2000. Nơi sinh: huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
Nơi ĐKTT và chỗ ở: Số 38B Trần Quý C, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Minh N, sinh năm 1960 và bà Khương Thị Bích P, sinh năm 1971; anh, em ruột: Có 03 người, lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Chưa.
Ngày 03/02/2022, có hành vi chống người thi hành công vụ bị tạm giữ đến ngày 09/02/2022, bị khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh số 31 ngày 09/02/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R. Hiện bị cáo đang được tại ngoại tại số 38B Trần Quý C, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang. Bị
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Đào Trọng V, sinh năm 1996. Địa chỉ: Số 168 Q, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang (có đơn xin vắng mặt).
Dương Văn T sinh năm 1986. Địa chỉ: D17 N, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang (có đơn xin vắng mặt).
Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1995. Địa chỉ: Số 596/313 N, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang (có đơn xin vắng mặt).
Võ Chí T, sinh năm 1993. Địa chỉ: Số 156/14 N, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang (có đơn xin vắng mặt).
Phạm Văn C, sinh năm 1983. Địa chỉ: Số 168 Q, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang (có đơn xin vắng mặt).
Khương Tích L, sinh năm 1983. Địa chỉ: Khu phố M, thị trấn M, huyện C, tỉnh Kiên Giang (có đơn xin vắng mặt).
* Người làm chứng:
Lê Thị Anh T, sinh năm 1993. Địa chỉ: Số 197/100 Q, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).
Danh Thị Hồng H, sinh năm 1979. Địa chỉ: Số 187/2 Q, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).
* Người chứng kiến: Bùi Hoàng V, sinh năm 1990. Địa chỉ: Số 168 Q, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ ngày 03/02/2022, được sự phân công của lãnh đạo trực Chỉ huy Công an phường V, thành phố R là ông Nguyễn Hữu P- Phó Trưởng Công an phường và trực ban là ông Đặng Ngọc Đ - Thiếu tá, Cán bộ Công an phường V, Tổ công tác có 06 đồng chí đều là cán bộ Công an phường V gồm: Phạm Văn C, cấp bậc: Thiếu tá; các Thượng úy Dương Văn T, Bùi Hoàng V, Nguyễn Hoàng A; các Trung úy Đào Trọng V và Võ Chí T đang trên đường đi tuần tra trên địa bàn phường
V. Khi đến trước nhà số 244 Q, khu phố Q, phường V phát hiện có tụ điểm tụ tập đông người đang đánh bạc bằng hình thức đánh bài cào (loại bài 3 lá) ăn thua bằng tiền nên tổ công tác đã ập vào khống chế bắt giữ một số đối tượng. Trong lúc Thượng úy Dương Văn T và Trung úy Võ Chí T đang khống chế bắt giữ đối tượng Khương Tích L thì bị Lê Khương Minh T (là em ruột của Lợi) dùng bình xịt hơi cay màu xanh đen (cất giấu sẵn trong người) xịt thẳng vào mặt của T và T, mục đích để giải vây cho Lợi tẩu thoát, sau khi xịt xong T bỏ chạy được khoảng 06 mét quay
lại nhìn thấy đồng chí Đào Trọng V đang tiếp tục bắt giữ L nên T quay lại tiếp tục xịt hơi cay vào mặt của V rồi bỏ chạy thì bị C và Hoàng A truy đuổi nên T chạy vào hẻm 197 Q, phường V được khoảng hơn 20 mét thì bị đuổi kịp, Toàn tiếp tục dùng bình xịt hơi cay đang xịt thẳng vào mặt của C và Hoàng A, sau đó T bị khống chế, bắt giữ đưa về Công an phường V để làm việc.
Ngày 09/02/2022, Lê Khương Minh T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R khởi tố và Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra. Trong quá trình điều tra và truy tố, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân.
Vật chứng thu giữ: 01 (một) bình xịt hơi cay màu xanh, tròn, nắp màu đen, trên bình có chữ NaTo, hình ngôi sao, tròn, đã qua sử dụng.
Tại bản kết luận giám định số: 1410/KL-KTHS ngày 24/3/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh- Bộ Công an kết luận: Chất lỏng đựng trong bình xịt hiệu “NaTo”, gửi đến giám định có chứa thành phần CS (2-Chlorobenzalmalononitrile).
Chất CS (2-Chlorobenzalmalononitrile) là tác nhân kích thích gây bỏng da, niêm mạc, gây chảy nước mắt, đau đớn và có thể gây mù mắt tạm thời. Thường sử dụng dưới dạng bình xịt hơi cay.
Bản Cáo trạng số 96/CT-VKSRG ngày 29/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Lê Khương Minh T về tội Chống người thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trên. Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì đối với Bản kết luận giám định số 1410/KL-KTHS ngày 24/3/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Khương Minh T mức án từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) bình xịt hơi cay màu xanh, tròn, nắp màu đen, trên bình có chữ NaTo, hình ngôi sao, tròn, đã qua sử dụng. Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 48/LNK-CSĐT- ĐTTH ngày 25 tháng 3 năm 2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R.
Phần dân sự: Đào Trọng V, Dương Văn T, Nguyễn Hoàng A, Võ Chí T không yêu cầu bị can Lê Khương Minh T bồi thường nên không đề nghị xem xét.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an thành phố R, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố R, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 14 giờ ngày 03/02/2022, được sự phân công của lãnh đạo trực Chỉ huy Công an phường V, thành phố R, Tổ công tác có 06 đồng chí đều là cán bộ Công an phường V gồm: Phạm Văn C, cấp bậc: Thiếu tá; các Thượng úy Dương Văn T, Bùi Hoàng V, Nguyễn Hoàng A; các Trung úy Đào Trọng V và Võ Chí T đang thi hành công vụ trên địa bàn phường V, khi đến trước nhà số 244 Q, phường V thì tổ công tác ập vào bắt giữ một số đối tượng có hành vi đánh bạc, trong lúc Thượng úy T và Trung úy T đang khống chế bắt giữ đối tượng Khương Tích L thì bị Lê Khương Minh T (là em ruột của Lợi) dùng bình xịt hơi cay xịt thẳng vào mặt của T và T để giải vây cho L tẩu thoát, sau đó lần lượt tiếp tục cũng dùng bình xịt hơi cay nêu trên xịt vào mặt của V, C và Hoàng A thì bị khống chế bắt giữ cùng tang vật.
Từ những chứng cứ đã nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự.
Xét về tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện tội phạm có ý thức và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo dùng bình xịt hơi cay xịt thẳng vào mặt các đồng chí Công an trong tổ công tác đang thực hiện nhiệm vụ khống chế bắt giữ một số đối tượng tụ tập đánh bạc ăn thua bằng tiền là hành vi không những gây cản trở việc thực hiện công vụ nhằm hạn chế tệ nạn xã hội, đảm bảo giữ gìn an ninh trật tự của các đồng chí Công an mà
còn gây nguy hiểm đến sức khỏe và tính mạng của người bị xịt hơi cay. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến tính mạng sức khỏe, mà còn gây tổn hại về tinh thần cho lực lượng Công an địa phương trong khi thực hiện nhiệm vụ. Hành vi Chống người thi hành công vụ của bị cáo đã làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của lực lượng Công an địa phương, cũng như cá nhân các đồng chí T, đồng chí T, đồng chí V, đồng chí C và đồng chí Hoàng A từ đó làm tăng thêm sự phức tạp về tình hình trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo một thời gian nhất định mới đủ tính răn đe, giáo dục bị cáo thành một con người có ích cho xã hội.
Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu nên được áp dụng quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự làm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.
Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc định tội danh, khung hình phạt cũng như việc áp dụng các điều luật để xử lý vụ án là có căn cứ pháp luật nên HĐXX ghi nhận để xem xét.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn; đồng thời bị cáo cũng không đảm nhiệm chức vụ, không hành nghề cũng như không làm công việc gì nhất định. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bình xịt hơi cay màu xanh, tròn, nắp màu đen, trên bình có chữ NaTo, hình ngôi sao, tròn.
Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định.
Về các vấn đề khác của vụ án: Đối với Khương Tích L có hành vi tham gia đánh bạc ăn thua bằng tiền, khi đến sòng bạc mang theo 400.000 đồng để đánh bạc và đều bị thua hết tiền, khi Công an phường V đến bắt giữ Lợi thì do L đã thua hết tiền nên đứng bên ngoài xem thì bị bắt, các đối tượng tham gia đánh bạc khác tại chiếu bạc đã bỏ chạy khỏi hiện trường, chưa xác định được người làm cái, số người tham gia và số tiền đánh bạc tại chiếu bạc, chưa có đủ căn cứ để xử lý hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R xử lý hành chính đối với L,
tiếp tục điều tra làm rõ các đối tượng có hành vi đánh bạc khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố: Bị cáo Lê Khương Minh T phạm tội “Chống người thi hành công vụ”. Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Khương Minh T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 03/02/2022 đến ngày 09/02/2022.
Về biện pháp tư pháp, áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bình xịt hơi cay màu xanh, tròn, nắp màu đen, trên bình có chữ NaTo, hình ngôi sao, tròn, đã qua sử dụng. Theo Quyết định chuyển vật chứng số 60/QĐ-VKS ngày 29/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp
200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 18/5/2022). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
| TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đoàn Văn Thậm |
Bản án số 152/2022/HS-ST ngày 18/05/2022 của TAND TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
- Số bản án: 152/2022/HS-ST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 18/05/2022
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Lê Khương Minh T chống người thi hành công vụ