TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ TỈNH PHÚ THỌ Bản án số:151 /2020/HSST Ngày 30/9/2020 | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lý Thị Thanh Huyền.
Các Hội thẩm nhân dân:1.Ông Nguyễn Huy Trụ
Ông Nguyễn Ngọc Hà
Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Đức Minh, Thư ký Tòa án, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 138/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 571/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn V; sinh ngày 12/4/1970 tại Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc; Nơi cư trú: Tổ 38, phố Thành Công, phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Quang và bà Vũ Thị Phẩm; có vợ là Nguyễn Thị Hồng Duyên và 03 con; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 13/5/2020 đến ngày 19/5/2020 được hủy quyết định gia hạn tạm giữ và ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, có mặt.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Chị Nguyễn Thị Hồng Duyên, sinh năm: 1979; địa chỉ: Tổ 38, phố Thành Công, phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.(có mặt)
Anh Nguyễn Tiến Hoạt, sinh năm: 1982; địa chỉ: Khu 5, phường Vân Phú, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. (vắng mặt)
Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam
Địa chỉ: Tháp BIDV, 35 Hàng Vôi, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Đại diện theo pháp luật: Ông Phan Đức Tú
Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị
Đại diện theo ủy quyền lại: Ông Ngô Long
Chức vụ: Phó Giám đốc Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh Hùng Vương.
(Quyết định ủy quyền số 843/QĐ-BIDV ngày 19/11/2018 của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam Quyết định ủy quyền ký và thực hiện các hợp đồng, văn bản liên quan đến hoạt động cấp tín dụng tại Chi nhánh)
(có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 9 giờ 30 phút ngày 13/5/2020, tại nhà ở của Nguyễn Văn V sinh năm 1970, hộ khẩu thường trú tại: Tổ 38, phố Thành Công, phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và chức vụ - Công an thành phố Việt Trì tiến hành kiểm tra phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn V về hành vi tàng trữ trái phép 10 thùng thuốc lá trong mỗi thùng có 50 cây thuốc lá, mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu có in chữ nước ngoài. Trong đó có 05 thùng bìa cát tông màu vàng bên ngoài in chữ ESSE bên trong có 250 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá điếu nhãn hiệu “ESSE” do nước ngoài sản xuất và 05 thùng bìa cát tông màu vàng bên trong có 250 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá điếu nhãn hiệu “555” do nước ngoài sản xuất. Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn V về hành vi nêu trên và tiến hành thu giữ vật chứng gồm số thuốc lá nêu trên.
Ngày 13/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 163 đối với số thuốc lá đã thu giữ của Nguyễn Văn V.
Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an đã khám sơ bộ thấy các cây thuốc trên mỗi loại đều có cùng chủng loại, hình dáng, đặc điểm, đều không có tem nhập khẩu, tiến hành lấy xác xuất:
40 ( bốn mươi) cây thuốc lá (mỗi cây chưa 10 bao, mỗi bao chứa 20 điếu thuốc) mang nhãn hiệu “ESSE”.
40 ( bốn mươi) cây thuốc lá (mỗi cây chưa 10 bao, mỗi bao chứa 20 điếu thuốc) mang nhãn hiệu “BLEND NO 555 GOLD”.
Để tiến hành giám định tiếp theo. Sau khi trích mẫu, toàn bộ các mẫu thuốc lá còn lại được niêm phong 10 (mười) thùng cát tông và bàn giao lại cho cơ quan CSĐT Công an thành phố Việt trì, tỉnh Phú Thọ.
Tại Bản kết luận giám định số 2827/C09-P4 ngày 14/5/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:
“Toàn bộ 2500 (hai nghìn năm trăm) bao thuốc lá (mỗi bao chứa 20 điếu) đều mang nhãn hiệu “ESSE SPECIAL GOLD” đều không có chữ Việt Nam, không dán tem nhập khẩu gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu “ESSE SPECIAL GOLD” được sản xuất tại nước ngoài. Toàn bộ 2500 (hai nghìn năm trăm) bao thuốc lá (mỗi bao chứa 20 điếu) đều mang nhãn hiệu “BLEND NO.555 GOLD” đều không có chữ Việt Nam, không dán tem nhập khẩu gửi giám
định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu “BLEND NO.555 GOLD” được sản xuất tại nước ngoài. Theo Thông tư số 124/2007/TT-BTC ngày 26/10/2007 của Bộ Tài chính thuốc lá điếu nhập khẩu vào Việt Nam phải có “tem thuốc lá điếu nhập khẩu” do Bộ Tài chính nước CHXHCN Việt Nam phát hành và dán trên từng bao”.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn V khai nhận hành vi phạm tội như sau:
Sáng ngày 12/5/2020, Nguyễn Văn V một mình điều khiển xe ô tô nhãn hiệu MAZDA, BT-50 của V có biển kiểm soát 19C - 136.31 từ nhà đi đến huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái để giải quyết công việc. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, V điều khiển xe ô tô trên đi từ huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái để đi về nhà. Khi V lái xe đi đến địa phận thuộc thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang thì V dừng xe nghỉ tại quán nước ven đường, tại đây V gặp người phụ nữ tên Hà là người quen từ trước nhưng không biết họ tên, địa chỉ cụ thể. Qua nói chuyện Hà biết V sẽ đi về thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ nên Hà đã đặt vấn đề nhờ V chở 10 thùng bìa cát tông bên trong có 5000 bao thuốc lá điếu gồm 2500 bao thuốc lá nhãn hiệu ESSE và 2500 bao thuốc lá nhãn hiệu 555 đều do nước ngoài sản xuất về thành phố Việt Trì sau đó sẽ có người đến nhận và trả cho V số tiền là
2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng), V đồng ý. Sau đó, Hà bảo V điều khiển xe ô tô đi theo Hà đến một đoạn đường vắng gần đó, tại đây Hà sử dụng điện thoại gọi cho ai thì V không biết. Một lúc sau, V thấy có hai nam thanh niên đi trên hai xe máy, V không nhớ rõ đặc điểm và biển kiểm soát, trên mỗi xe có chở 05 thùng bìa cát tông màu vàng trong đó có 05 thùng bên ngoài có in chữ ESSE đi đến địa điểm Hà và V đang đợi. Sau khi xem, V thấy trong 10 thùng này bên trong đều có thuốc lá điếu như Hà nói nên V đồng ý. V chuyển số thuốc lá này vào thùng xe ô tô rồi đóng kín nắp thùng, khóa lại, sau đó V đọc địa chỉ nhà và số điện thoại của V là 0979.904.188 cho Hà lưu lại để Hà sẽ chủ động liên lạc cho V rồi V điều khiển xe ô tô đi về thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Khi về đến nhà, V đỗ xe tại sân và cầm chìa khóa xe, số thuốc lá trên V vẫn để tại thùng xe ô tô để chờ người đến lấy. Đến khoảng 9 giờ 30 ngày 13/5/2020, khi V cùng vợ là Nguyễn Thị Hồng Duyên đang ở thì thấy có xe ô tô taxi biển kiểm soát 19A -
072.85 do anh Nguyễn Tiến Hoạt, sinh năm:1982, hộ khẩu thường trú: Tổ 34, Khu 5, phường Vân Phú, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ điều khiển đến và bảo nhận hàng cho khách, biết sẽ có người đến lấy số thuốc lá trên nên V đồng ý bảo anh Hoạt mở cốp sau xe và lùi xe lại gần cổng nhà V giáp với đuôi xe ô tô biển kiểm soát 19C – 136.31. V bảo chị Duyên vào nhà lấy chìa khóa xe và mở thùng xe ô tô, V lên thùng xe và lấy ra phía ngoài 05 thùng bìa cát tông màu vàng bên ngoài có in chữ ESSE, thấy vậy anh Hoạt chuyển 04 thùng đưa vào cốp sau xe của Hoạt, thùng còn lại V xuống và chuyển tiếp vào cốp xe của Hoạt. Ngay khi vừa chuyển xong thì lực lượng Công an thành phố Việt Trì phát hiện bắt quả tang, quá trình kiểm tra phát hiện trong cốp xe ô tô biển kiểm soát 19A - 072.85 của Hoạt có 05 thùng bìa cát tông màu vàng bên ngoài có in chữ ESSE, mở ra bên trong mỗi thùng có 50 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá có ghi chữ nước ngoài nhãn hiệu ESSE. Ngoài ra, kiểm tra tại thùng xe ô tô biển kiểm soát 19C –
136.31 của V phát hiện có 05 thùng bìa cát tông, mở ra bên trong mỗi thùng có 50 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá có in chữ nước ngoài nhãn hiệu 555. Cơ quan công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn V và thu giữ vật chứng, đồ vật, tài liệu theo quy định.
Quá trình điều tra, Nguyễn Tiến Hoạt khai nhận: Khoảng 9 giờ ngày 13/5/2020, khi đang đứng chờ khách đi xe taxi lại gần khu vực Trung tâm thương mại Vincom thuộc phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ thì có một người đàn ông không quen biết đi đến và bảo anh Hoạt đến số nhà 136, tổ 38, Thành Công, phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ chở cho anh đó 05 thùng bìa cát tông nhỏ rồi quay lại người đó nhận hàng và trả tiền thuê chở nên Hoạt đồng ý. Khi đi đến nhà anh V để nhận hàng thì bị Cơ quan công an phát hiện như đã nêu trên.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì đã tiến hành điều tra, rà soát đối tượng đã thuê anh Hoạt tại khu vực Trung tâm thương mại Vincom thuộc phường Tiên Cát, Việt Trì, Phú Thọ nhưng không xác định được.
Vật chứng, tài sản bị thu giữ:
Thu giữ của V: 05 thùng bìa cát tông màu vàng bên ngoài in chữ ESSE được dán kín và niêm phong bên trong có 250 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá điếu nhãn hiệu “ESSE” do nước ngoài sản xuất nhưng không dán tem nhập khẩu; 05 thùng bìa cát tông màu vàng được dán kín và niêm phong bên trong có 250 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá điếu nhãn hiệu “555” do nước ngoài sản xuất nhưng không dán tem nhập khẩu;
01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X màu xám đã cũ, số Seri: DNQW1WUOJCLJ, sim trong máy có số 0979904188;
01chiếc xe ô tô nhãn hiệu MAZDA BT50, biển kiểm soát 19C-136.31 trị giá tại thời điểm hiện tại là 320.000.000 đồng (Theo Kết luận định giá tài sản phục vụ tố tụng Hình sự số 99 ngày 27/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản - Ủy ban nhân thành phố Việt Trì) là phương tiện mà Nguyễn Văn V sử dụng để cất dấu số thuốc lá trên. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên có nguồn gốc là số tiền của V cùng vợ là Nguyễn Thị Hồng Duyên cùng góp để mua xe ô tô từ năm 2018 với mục đích sử dụng chung, đăng ký xe ô tô mang tên Nguyễn Văn V. Chiếc xe ô tô này Nguyễn Văn V đang thế chấp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ để vay vốn từ năm 2018. Khi V sử dụng chiếc xe ô tô trên để vận chuyển số thuốc lá trên từ Tuyên Quang về, chị Duyên – vợ V không biết.
Về điều kiện kinh tế của bị cáo: Qua xác minh, Cơ quan điều tra xác định bị cáo sống cùng gia đình, tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú bị cáo có tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất thuộc thửa đất số 54, tờ bản đồ số 23 đứng tên Nguyễn Văn V; 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu MAZDA BT50, biển kiểm soát 19C-
136.31 do vợ chồng V góp tiền mua đang bị tạm giữ. Hiện quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất cùng chiếc xe ô tô trên của V đều đang thế chấp tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hùng Vương để đảm bảo cho các Hợp đồng tín dụng mà gia đình V vay vốn năm 2018; 2019.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố.
Bản Cáo trạng số: 147/CT-VKS-VT ngày 14 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Nguyễn Văn V về tội “Tội tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm b, khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và
đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”
Áp dụng điểm b, khoản 3 Điều 191; điểm s,t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35, Điều 54; điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự ; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Đề nghị xử phạt tiền bị cáo Nguyễn Văn V từ: 310.000.000đ (Ba trăm mười triệu đồng) đến 330.000.000đ (Ba trăm ba mươi triệu đồng).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy 05 thùng bìa cát tông màu vàng bên ngoài in chữ ESSE được dán kín và niêm phong bên trong có 210 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá điếu nhãn hiệu “ESSE” do nước ngoài sản xuất nhưng không dán tem nhập khẩu; 05 thùng bìa cát tông màu vàng được dán kín và niêm phong bên trong có 210 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá điếu nhãn hiệu “555” do nước ngoài sản xuất nhưng không dán tem nhập khẩu.
Trả lại cho bị cáo V 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X màu xám đã cũ, số Seri: DNQW1WUOJCLJ và sim trong máy có số 0979904188 vì không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15 tháng 9 năm 2020 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ)
Xác nhận ngày 17/9/2020 Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì đã trả lại 01chiếc xe ô tô nhãn hiệu MAZDA BT50, biển kiểm soát 19C-136.31 cho Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam là người quản lý tài sản hợp pháp xử lý theo quy định pháp luật để đảm bảo thu hồi khoản vay của vợ chồng bị cáo là hợp pháp.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai, bị cáo ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng:
Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Việt Trì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng đã được tống đạt cho bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác đúng thời hạn do pháp luật quy định nên các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Nguyễn Tiến Hoạt và Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt, hơn nữa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã có lời khai đầy đủ, đã trình bày ý kiến của mình về các vấn đề có liên quan trong vụ án nên sự vắng mặt tại phiên tòa của Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Về nội dung:
Đánh giá các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng.
Hồi 9 giờ 30 phút ngày 13/5/2020 tại nhà riêng của Nguyễn Văn V thuộc tổ 38, phố Thành Công, phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Nguyễn Văn V đã có hành vi tàng trữ trái phép 5000 bao thuốc lá. Cụ thể gồm: 2500 bao thuốc lá mang nhãn hiệu “ESSE SPECIAL GOLD’ và 2500 bao thuốc lá mang nhãn hiệu “BLEND NO.555 GOLD”. Toàn bộ số thuốc lá điếu các loại trên đều không có giấy tờ, hóa đơn chứng từ để chứng minh nguồn gốc xuất xứ hợp pháp của hàng hóa, không dán tem nhập khẩu, bị cáo không cung cấp được chứng từ hóa đơn hợp pháp của lô hàng. Căn cứ vào quy định tại mục II, thông tư số 124/2007/TT-BTC ngày 26/10/2007 của Bộ tài chính: Hướng dẫn về in phát hành, sử dụng, quản lý tem thuốc lá điếu nhập khẩu, tem xì gà nhập khẩu và Bản kết luận giám định số 2827/C09-P4 ngày 14/5/2020 của Viện khoa học hình sự- Bộ công an xác định 5000 bao thuốc lá Nguyễn Văn V tàng trữ ngày 13/5/2020 là hàng hóa Nhà nước cấm mua bán, tàng trữ, vận chuyển, Vì vậy hành vi nêu trên của Nguyễn Văn V phạm tội tàng trữ hàng cấm theo quy định tại điểm b, khoản 3, Điều 191 của Bộ luật Hình sự
Tại Điều 191 Bộ luật Hình sự quy định:
“1.Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ
luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm::
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
…
Thuốc lá điếu nhập lậu 4.500 bao trở lên
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý việc sản xuất, buôn bán hàng cấm của Nhà nước.
Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện nên bị cáo phải chịu hậu quả về hành vi phạm tội của mình.
Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng cho bị cáo: Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có công văn số 669/CV- CQĐT ngày 17/9/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Việt Trì về việc tích cực hợp tác với cơ quan Công an trong việc phát hiện tội phạm. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng cho bị cáo theo quy định tại điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo còn có bố đẻ là ông Nguyễn Văn Quang được Chính Phủ thưởng Huy chương Chiến thắng hạng nhất, được Nhà nước tặng Huy chương Kháng chiến hạng nhất, cho nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Về hình phạt:
Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội thuộc trường hợp nghiêm trọng, tuy nhiên bị cáo phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng và bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự, 01 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo được hưởng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật là đúng theo quy định khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự. Như vậy, Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ tính chất răn đe, giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 191 của Bộ luật hình sự thì bị cáo có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.. Xét thấy đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền đối với bị cáo cho nên không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo là đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Bộ luật Hình sự.
Về vật chứng của vụ án:
Thuốc lá điếu nhập lậu là hàng hóa nhà nước cấm lưu hành, vì vậy cần tịch thu tiêu hủy: 05 thùng bìa cát tông màu vàng bên ngoài in chữ ESSE được dán kín và niêm phong bên trong có 210 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá điếu nhãn hiệu “ESSE” do nước ngoài sản xuất nhưng không dán tem nhập khẩu; 05 thùng bìa cát tông màu vàng được dán kín và niêm phong bên trong có 210 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá điếu nhãn hiệu “555” do nước ngoài sản xuất nhưng không dán tem nhập khẩu.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X màu xám đã cũ, số Seri: DNQW1WUOJCLJ và sim trong máy có số 0979904188 đã thu giữ là vật không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo V.
Đối với 01chiếc xe ô tô nhãn hiệu MAZDA BT50, biển kiểm soát 19C-
136.31. Xét thấy đây là phương tiện mà V dùng để thực hiện hành vi phạm tội, tuy
nhiên đây là tài sản chung của V và vợ là Nguyễn Thị Hồng Duyên đang thế chấp tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam để vay vốn từ năm 2018. Căn cứ vào điểm a, mục 5, phần I Thông tư liên tịch số 26/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTC-PTP ngày 24/10/1998 của Tòa
án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp về bảo quản và xử lý tài sản là vật chứng (các quy định tại Thông tư này tương ứng với các điều luật được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự và Bộ luật Dân sự, Thông tư này đến nay vẫn còn hiệu lực pháp luật và chưa có văn bản pháp luật nào thay thế) và các Điều 297, 303, 308 Bộ luật Dân sự thì chiếc ô tô này phải được hóa giá để thanh toán cho Ngân hàng tương ứng với số tiền bị cáo có nghĩa vụ thanh toán, số tiền còn lại (nếu có), một phần được trả lại cho chủ sở hữu chung là chị Nguyễn Thị Hồng Duyên, phần còn lại bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nhưng theo xác nhận của Ngân hàng dư nợ hiện nay tại Ngân hàng nhiều hơn giá trị của chiếc xe nên giữa Ngân hàng và bị cáo V, chị Duyên đã có văn bản thỏa thuận về việc giao toàn bộ tài sản thế chấp là chiếc xe ô tô để Ngân hàng chủ động xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay đã quá hạn, Ngân hàng có đề nghị xử lý tài sản bảo đảm. Ngày 17/9/2020 Tòa án đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 568/QĐ-TA trả lại 01chiếc xe ô tô nhãn hiệu MAZDA BT50, biển kiểm soát 19C-136.31 cho Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam xử lý để đảm bảo khoản vay là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về những vấn đề khác:
Đối với anh Nguyễn Tiến Hoạt và chị Nguyễn Thị Hồng Duyên đều không biết bên trong những thùng bìa cát tông có thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất, cũng không biết việc Nguyễn Văn V tàng trữ trái phép số thuốc lá trên nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý, xét thấy phù hợp.
Đối với người phụ nữ tên Hà, bị cáo V chỉ quen biết xã hội, không biết tên đầy đủ và địa chỉ cụ thể của người này và ngoài lời khai của V thì không có tài liệu chứng cứ nào khác để chứng minh họ đã liên lạc trao đổi với nhau về việc vận chuyển, tàng trữ thuốc lá nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ xử lý với Hà, xét thấy phù hợp.
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và đúng theo quy định của pháp luật nên cần được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35, Điều 54; điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V: 310.000.000đ (Ba trăm mười triệu đồng).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn V.
Về vật chứng vụ án:
-Tịch thu tiêu hủy: 05 thùng bìa cát tông màu vàng bên ngoài in chữ ESSE được dán kín và niêm phong bên trong có 210 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá điếu nhãn hiệu “ESSE” do nước ngoài sản xuất nhưng không dán tem nhập khẩu; 05 thùng bìa cát tông màu vàng được dán kín và niêm phong bên trong có 210 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá điếu nhãn hiệu “555” do nước ngoài sản xuất nhưng không dán tem nhập khẩu.
- Trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X màu xám đã cũ, số Seri: DNQW1WUOJCLJ và sim trong máy có số 0979904188 cho bị cáo Nguyễn Văn V.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15 tháng 9 năm 2020 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ)
Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lý Thị Thanh Huyền |
CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lý Thị Thanh Huyền
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lý Thị Thanh Huyền |
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lý Thị Thanh Huyền |
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.
CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lý Thị Thanh Huyền
Nghị án kết thúc vào hồi giờ phút , ngày 05/5/2020.
Biên bản đã được thông qua tại phòng nghị án, đã đọc lại, các thành viên Hội đồng xét xử nghe và cùng ký tên dưới đây.
CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lý Thị Thanh Huyền
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ TỈNH PHÚ THỌ | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
THÔNG BÁO
KẾT QUẢ XÉT XỬ
Kính gửi: UBND phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
Căn cứ Điều 262 Bộ luật tố tụng hình sự;
Toà án nhân dân thành phè ViÖt Tr× - tỉnh Phú Thọ thông báo đến UBND xã Phượng Lâu, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ:
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 151/2020/HSST ngày 30/9/2020 đối với bị
cáo:
Nguyễn Văn V; sinh ngày 12/4/1970 tại Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc; Nơi
cư trú: Tổ 38, phố Thành Công, phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: lao động tự do;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35, Điều 54; điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V: 310.000.000đ (Ba trăm mười triệu đồng). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn V.
Về vật chứng vụ án:
-Tịch thu tiêu hủy: 05 thùng bìa cát tông màu vàng bên ngoài in chữ ESSE được dán kín và niêm phong bên trong có 210 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá điếu nhãn hiệu “ESSE” do nước ngoài sản xuất nhưng không dán tem nhập khẩu; 05 thùng bìa cát tông màu vàng được dán kín và niêm phong bên trong có 210 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá điếu nhãn hiệu “555” do nước ngoài sản xuất nhưng không dán tem nhập khẩu.
- Trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X màu xám đã cũ, số Seri: DNQW1WUOJCLJ và sim trong máy có số 0979904188 cho bị cáo Nguyễn Văn V.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15 tháng 9 năm 2020 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ)
Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Toà án nhân dân thành phố ViÖt Trì gửi thông báo kết quả xét xử đến thông báo cho UBND phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ được biết.
Nơi nhËn: THẨM PHÁN
Như KG;
Lưu HS;
Lý Thị Thanh Huyền
Bản án số 151/2020/HSST của TAND TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
- Số bản án: 151/2020/HSST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 27/08/2021
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Văn V phạm tội tàng trữ hàng cấm