Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Bản án số: 14/2022/LĐ-ST Ngày: 21-11-2022

V/v Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: bà Đỗ Thị Lan Hương

Các Hội thẩm nhân dân:

  1. Ông Nguyễn Thanh Cần

  2. Ông Lê Minh Hoàng - Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Thư ký phiên toà: bà Vũ Thị Thuyến – Thư ký Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa: bà Lê Thị Ngọc Trinh - Kiểm sát viên.

Trong các ngày 16 và 21 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Lao động thụ lý số 06/2022/TLST-LĐ ngày 18 tháng 01 năm 2022 về việc: “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” theo Thông báo mở phiên toà xét xử số 08/2022/TB-TA ngày 28 tháng 10 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2022/QĐST-LĐ ngày 08 tháng 11 năm 2022 giữa:

  • Nguyên đơn: bà Võ H, sinh năm 1992; địa chỉ: ấp B, xã G, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp; tạm trú: nhà trọ Nguyễn P, khu phố Đ, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

    Người đại diện hợp pháp: Ông Vũ M, sinh năm 1981; địa chỉ liên hệ: khu dân cư thương mại H, khu phố 3, phường UH, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (theo Hợp đồng ủy quyền ngày 05/01/2022); có mặt.

  • Bị đơn:

  1. Công ty FH; trụ sở chính: đường N6, khu công nghiệp K, phường B, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

    Người đại diện hợp pháp: ông Nguyễn D, sinh năm 1985; địa chỉ liên hệ: Công ty FH; trụ sở chính: lô 2, đường N6, khu công nghiệp K, phường B, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (theo Giấy ủy quyền ngày 25/4/2022); vắng mặt.

  2. Công ty NKF; trụ sở chính: lô R4, đường N10, khu công nghiệp K, phường B, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương;

    Người đại diện hợp pháp: ông Võ V, sinh năm 1991; địa chỉ: số 93, ấp L, xã A, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; yêu cầu giải quyết vắng mặt.

    • Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông PJY, sinh năm 1982; địa chỉ liên hệ: Công ty FH; trụ sở chính: lô 2, đường N6, khu công nghiệp K, phường B, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, yêu cầu giải quyết vắng mặt.

    • Người làm chứng:

  1. Công ty Bảo Vệ; địa chỉ: số 137B, đường NT, phường 9, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

    Người đại diện hợp pháp: ông Võ T, chức vụ: Giám đốc; yêu cầu giải quyết vắng mặt.

  2. Ông Nguyễn M, sinh năm 1966, địa chỉ: ấp 3, xã T, huyện B, tỉnh Tiền Giang; yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Vũ M trình bày:

Ngày 19/8/2020 bà Võ H và Công ty NKF ký Hợp đồng lao động số 25/HĐLĐ thời hạn hợp đồng từ ngày 19/8/2020 đến ngày 19/8/2021. Người đại diện công ty ký hợp đồng lao động là ông PJY chức vụ Tổng giám đốc. Công việc chuyên môn: đánh bóng, thời gian làm việc 8 tiếng/ngày từ 7h30 đến 16h30, một tuần làm 6 ngày, thời gian nghỉ trưa là từ 11h30 đến 12h30 và được nghỉ ngày chủ nhật. Lương cơ bản 4.800.000 đồng, thưởng chuyên cần 300.000 đồng, phụ cấp nhà trọ 200.000 đồng, trách nhiệm 500.000 đồng, phụ cấp kỹ thuật 300.000 đồng.

Hợp đồng lao động giữa bà Võ H và Công ty NKF đến ngày 19/8/2021 mới hết thời hạn, tuy nhiên này 01/6/2021, ông PJY ông PJY là người đại diện Công ty NKF ký hợp đồng lao động yêu cầu bà Võ H ký tiếp hợp đồng lao động số FH21892, thời hạn hợp đồng 01 năm từ ngày 01/6/2021 đến 31/05/2022 và điều động bà H đến Công ty FH(gọi tắt là Công ty FH) làm cùng công việc chuyên môn: đánh bóng, thời gian làm việc là 8 tiếng/ngày từ 7h30 đến 16h30, một tuần làm 6 ngày từ thứ 2 đến thứ 7, thời gian nghỉ trưa là từ 11h30 đến 12h30, ngày chủ nhật được nghỉ. Lương cơ bản 4.729.400 đồng, thưởng chuyên cần 400.000 đồng, phụ cấp nhà trọ 100.000 đồng, phụ cấp xăng xe 100.000 đồng. Số tiền thực lãnh của bà H là 6.100.000 đồng/tháng (sáu triệu một trăm nghìn đồng trên một tháng).

Kể từ khi ký hợp đồng lao động số FH21892 ngày 01/6/2021 với Công ty FH bà H không còn làm việc tại Công ty NKF theo nội dung Hợp đồng lao động số 25/HĐLĐ ngày 19/8/2020. Công ty NKF đã trả đủ lương cho bà H đến thời điểm ngày 01/6/2021, tham gia bảo hiểm xã hội cho bà H đến tháng 10/2021.

Công ty FH Việt Nam trả lương cho bà H từ ngày 01/6/2021 đến khi bị cho nghỉ việc. Sau khi bị cho nghỉ việc, bà H được biết Công ty NKF đã thuê nhà xưởng từ Công ty FH. Hai công ty đều tồn tại quan hệ lao động với bà Võ H, tại hai công ty trên bà H đều làm cùng một công việc và tại cùng một địa điểm làm việc. Trong quá trình làm việc bà H luôn tuân thủ theo sự sắp xếp điều động của ông PJY tại Công ty NKF và tại Công ty FH. Do tình hình dịch bệnh Covid-19, bà H phải ở Công ty làm việc theo hình thức “3 tại chỗ” (sản xuất, cách ly, ăn nghỉ tại chỗ).

Khoảng tháng 10/2021, bà H phải đi cách ly vì bị bệnh Covid19, thời gian cụ thể đi từ ngày nào không nhớ rõ. Sau khi hoàn thành cách ly, giữa tháng 10 bà H có đến công ty làm lại, tuy nhiên khi đến cổng công ty thì nhân viên phòng nhân sự của công ty thông báo không có hàng, bà H không cần đi làm, khi nào có hàng công ty sẽ thông báo. Bà H biết công ty vẫn có hàng làm bình thường và đã nhiều lần liên hệ nhưng không nhận được phản hồi. Bà H đã khởi kiện công ty tại Toà án. Sau khi khởi kiện, bà H nhận được Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn số 05-11/2021/QĐTV ngày 15/01/2022 do Công ty NKF đóng dấu với lý do xin thôi việc. Người ký Hợp đồng lao động số 25/HĐLĐ ngày 19/8/2020, ký Hợp đồng lao động số FH21892 ngày 01/6/2021 giữa Công ty FH với bà H và Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn ngày 15/01/2022 đều cùng một người là ông PJY, hiện đang là Phó Giám đốc Công ty NKF đồng thời cũng là Phó Giám đốc Công ty FH. Trên thực tế, bà H không gửi đơn hoặc thông báo xin thôi việc với công ty. Công ty NKF ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn không thông báo trước là trái pháp luật làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bà H.

Công ty NKF có mối quan hệ mật thiết với Công ty FH, cả 2 công ty đều tồn tại quan hệ lao động đối với bà H, đều có liên quan đến việc đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật đối với bà H. Do đó, bà H yêu cầu Tòa án giải quyết:

  1. Buộc Công ty FHphải liên đới với Công ty NKF bồi thường tiền lương cho bà Võ H những ngày không được làm việc từ ngày 01/11/2021 đến ngày 31/5/2022 số tiền 6.100.000 đồng x 07 tháng = 42.700.000 đồng.

  2. Buộc Công ty FH phải liên đới với Công ty NKF bồi thường 02 tháng tiền lương và phụ cấp lương 6.100.000 đồng x 02 tháng = 12.200.000 đồng.

  3. Buộc Công ty FH Việt Nam phải liên đới với Công ty NKF bồi thường do vi phạm thời gian báo trước 30 ngày x 235.000 đồng/ngày = 7.050.000 đồng.

  4. Buộc Công ty NKF phải hủy bỏ quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với bà Võ H và Công ty FH nhận bà H vào làm việc lại. Trường hợp Công ty FH không nhận bà H làm việc lại thì phải liên đới với Công ty NKF bồi thường 04 tháng tiền lương 6.100.000 đồng x 04 tháng = 24.400.000 đồng.

    Tổng số tiền bà H yêu cầu Công ty FH và Công ty SX Ngũ Kim Feng Xin liên đới bồi thường 86.350.000 đồng.

  5. Buộc Công ty FH và Công ty NKF phải liên đới đóng các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc cho bà H từ ngày 01/11/2021 đến ngày 31/5/2022.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 08/8/2022, người đại diện hợp pháp của Công ty NKF, ông Võ V trình bày: với tư cách người đại diện theo pháp luật của Công ty NKF ông Võ V có uỷ quyền cho ông PJY chức vụ Phó Giám đốc của Công ty ký Hợp đồng lao động số 25/HĐLĐ ngày 19/8/2020 với bà Võ H, thời hạn từ ngày đến ngày 19/8/2020 đến ngày 19/8/2021. Vì nhiều lý do trong đó có lý do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid19, công ty đã ngưng hoạt động từ cuối tháng 5/2021 nhưng vẫn còn tồn tại tư cách pháp nhân. Công ty đã trả đủ lương và các khoản phụ cấp cho bà H đến hết tháng 5/2021, bên cạnh đó công ty vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng lao động nên đã thực hiện đóng các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc và chốt sổ bảo hiểm xã hội cho bà H đến hết tháng 9 năm 2021. Công ty vẫn có quyền ký các giấy tờ để đảm bảo quyền lợi cho công ty và người lao động trong đó có Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn ngày 15/01/2022 với bà Võ H.

Ông Võ V thừa nhận có uỷ quyền cho ông PJY đại diện Công ty NKF ký Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn số 05-11/QĐTV ngày 15/01/2022 với bà H. Vì lỗi soạn thảo văn bản, Công ty không kiểm tra kỹ nội dung nên trong quyết định có ghi lý do bà H xin nghỉ việc, thực tế bà H không làm đơn xin nghỉ việc mà là hết thời hạn theo hợp đồng lao động. Mục đích của Công ty ban hành quyết định là để người lao động hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, chế độ phụ cấp, hỗ trợ trong thời gian dịch bệnh Covid 19

Công ty NKF có tư cách pháp nhân độc lập, trụ sở công ty cũng không cùng một địa điểm và không có mối quan hệ gì với Công ty FH. Hợp đồng lao động giữa bà Võ H và Công ty NKF đến ngày 19/8/2021 mới hết thời hạn, tuy nhiên trên thực tế từ ngày 01/6/2021 bà H không còn làm việc tại Công ty. Tại thời điểm bà H nộp đơn khởi kiện giữa Công ty NKF và bà Võ H không còn tồn tại mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ giữa người sử dụng lao động và người lao động nên công ty không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bà H.

Trong quá trình tham gia tố tụng người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty FH, ông Nguyễn D trình bày: không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì Công ty FH không đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà Võ H.

Trong thời gian từ tháng 8, 9, 10, 11 không thời gian nào Công ty FH không có đơn hàng và không khi nào thông báo cho toàn thể công nhân trong công ty nghỉ làm vì dịch bệnh mà công ty vẫn phải làm theo chế độ “3 tại chỗ” theo chỉ thị của Nhà nước. Công ty không thông báo cho bà H không phải đến làm việc vì không có hàng, muốn thông báo gì cho công nhân, công ty phải làm bằng văn bản dán nên bảng thông báo của công ty.

Nếu bà H là công nhân khi đến công ty chỉ cần có thẻ và đúng giờ hành chính là được đi vào làm việc, bảo vệ công ty không ngăn cản bà H vào công ty làm việc, nếu bảo vệ không cho vào làm việc bà H vẫn có thể liên lạc với nhân sự trong công ty để can thiệp vì số điện thoại nhân sự dán ngay cổng công ty. Tới thời điểm hiện nay công ty không nhận được phản ánh hay đơn khiếu nại về việc không được vào công ty làm việc của bà H.

Từ giữa tháng 10/2011 đến ngày nhận được quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn, bà H không đến công ty làm việc. Công ty cho rằng bà H về quê hoặc không muốn làm việc nữa nên không liên lạc vì nếu bà H muốn tiếp tục làm việc đã đến công ty làm việc bình thường.

Công ty NKF và Công ty FH không có mối liên hệ mà là 02 doanh nghiệp độc lập, người đại diện theo pháp luật cũng không phải cùng 01 người. Bà Võ H làm công nhân tại Công ty NKF, khi công ty này ngưng hoạt động thì bà H đến Công ty FH làm công nhân.

Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn số 05- 11/2021/QĐTV ngày 15/01/2022 do Công ty NKF ký, đóng dấu. Công ty FH không ban hành quyết định với bà H. Từ tháng 10/2022 bà H không đi làm nên công ty không trả lương và phụ cấp lương cho bà H.

Trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên toà người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông PJY, trình bày: khi ký Hợp đồng lao động với các công nhân làm việc tại Công ty NKF, trụ sở chính Lô R4, đường N10, khu công nghiệp K, phường B, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương với tư cách Tổng giám đốc, ông PJY được người đại diện theo pháp luật của công ty là ông Võ V uỷ quyền thì mới có quyền ký các hợp đồng lao động mà công nhân giao nộp cho Toà án.

Ông PJY là người lao động, khi công ty Công ty NKF ngừng hoạt động, ông đã liên hệ với Công ty FH để được làm việc đúng với chuyên môn, sở trường và rút cổ phần của mình góp sang Công ty FH.

Công ty NKF và Công ty FH không có mối liên hệ, tại 02 công ty, chức vụ quyền hạn của ông PJY không giống nhau. Do người đại diện theo pháp luật của Công ty FH là Shen Bao uỷ quyền nên ông PJY mới có quyền ký các hợp đồng lao động với công nhân trong đó có Hợp đồng lao động số FH21892 ngày 01/6/2021 giữa Công ty FH với bà Võ H

Công ty NKF ngừng hoạt động nhưng chưa chấm dứt tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật. Công ty đã trả đủ lương và phụ cấp nhưng vẫn thực hiện đóng các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp bảo hiểm y tế cho công nhân và chốt sổ bảo hiểm xã hội cho công nhân trong công ty đết hết tháng 10 năm 2021 và vẫn có quyền ký các giấy tờ để đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong đó có Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn ngày 15/01/2022 với bà Võ H.

Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn ngày 15/01/2022 với bà H ghi rõ Công ty NKF ra quyết định và đóng đấu, ông PJY không được Công ty FH uỷ quyền và cũng không ký Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn với bà Võ H tư cách đại diện Công ty FH.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã TU tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

  • Về thủ tục tố tụng: trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành và tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

  • Về nội dung: nguyên đơn ký hợp đồng lao động với Công ty NKF thời hạn từ ngày 19/8/2020 đến ngày 19/8/2021. Ngày 01/6/2021, nguyên đơn lại ký hợp đồng lao động với Công ty FH thời hạn từ ngày 01/6/2021 đến ngày 31/5/2022. Thực tế Công ty FH thực hiện việc trả lương cho nguyên đơn, còn Công ty NKF tham gia đóng BHXH cho nguyên đơn đến tháng 10/2021. Công ty FH thành lập từ năm 2021 nhưng theo bảng lương của nguyên đơn do đại diện Công ty FH cung cấp thì nguyên đơn bắt đầu làm việc tại Công ty từ ngày 25/4/2020, đây là tình tiết chứng minh nguyên đơn làm việc từ năm 2020 tại Công ty NKF sau đó ông PJY đã điều động qua Công ty FH làm cùng một công việc. Công ty NKF ban hành Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn vào ngày 15/01/2022 là thời điểm nguyên đơn không còn làm việc tại Công ty FH. Thực tế quan hệ lao động giữa Công ty NKF và nguyên đơn đã chấm dứt từ tháng 6/2021. Trong quá trình tham gia tố tụng người đại diện theo pháp luật của Công ty FH trình bày do nguyên đơn tự ý nghỉ việc nên công ty đã ban hành quyết định sa thải để người lao động hưởng chế độ về BHXH và trợ cấp của Nhà nước. Lời thừa nhận của đại diện Công ty FH là tình tiết không phải chứng minh cho việc Công ty NKF ra quyết định nhưng Công ty FH thi hành quyết định.

Dựa vào các phân tích trên thì giữa Công ty NKF và Công ty FH có mối quan hệ về việc sử dụng lao động, có thoả thuận về việc sử dụng lao động với nguyên đơn, do đó việc nguyên đơn yêu cầu 02 công ty có trách nhiệm liên đới bồi thường là có căn cứ.

Quan hệ lao động giữa Công ty NKF và nguyên đơn đã chấm dứt từ ngày 01/6/2021, công ty đã chốt và trả số BHXH cho nguyên đơn là đã thực hiện hết các nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với người lao động nên nguyên đơn yêu cầu Công ty NKF bồi thường và đóng các khoản BHXH theo quy định của pháp luật đến ngày 31/5/2022 do do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật không có căn cứ.

Giữa nguyên đơn và Công ty FH tồn tại quan hệ lao động từ ngày 01/6/2021 đến ngày 31/5/2022. Nguyên đơn cho rằng sau khi hết thời gian cách ly do bị nhiễm bệnh Covid19 có đến Công ty làm việc nhưng nhân sự công ty thông báo không có hàng. Nguyên đơn có liên hệ và đến công ty nhiều lần nhưng không được công ty cho vào làm việc nhưng nguyên đơn không có chứng cứ chứng minh. Mặt khác, sau khi thực hiện xong việc cách ly thì tháng 11 nguyên đơn đã đi làm tại công ty khác. Do đó, nguyên đơn yêu cầu Công ty FH bồi thường thiệt hại do hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là không có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử hông chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về sự vắng mặt của bị đơn Công ty NKF và Công ty FH: Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng người đại diện hợp pháp của Công ty NKF là ông Võ Thành Vinh yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Công ty FH và người đại diện

hợp pháp là ông Nguyễn D vắng mặt không có lý do. Căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2]. Về nội dung: bà Võ H yêu cầu Công ty FH và Công ty NKF liên đới bồi thường 86.350.000 đồng do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và liên đới đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp cho bà H từ ngày tháng 11/2021 đến hết ngày 31/5/2022.

[3]. Hợp đồng lao động số 25/HĐLĐ ngày 19/8/2020 giữa bà Võ H và Công ty NKF, người đại diện công ty ký hợp đồng lao động là ông PJY chức vụ Tổng giám đốc, hợp đồng lao động có đóng dấu của Công ty NKF, ông Võ Thành Vinh là người đại diện theo pháp luật của công ty thừa nhận có uỷ quyền cho ông PJY ký hợp đồng lao động nêu trên.

Hợp đồng lao động số FH21892 ngày 01/6/2021 thời hạn từ ngày 01/6/2021 đến 31/05/2022 giữa bà H và Công ty FH. Người đại diện công ty ký hợp đồng là ông PJY chức vụ Phó Giám đốc, có đóng dấu của công ty.

Toà án đã thông báo cho ông Võ Thành Vinh và ông PJY giao nộp văn bản uỷ quyền nhưng không ai giao nộp. Do vậy, hình thức hợp đồng lao động không tuân thủ quy định tại điều 14, điều 18 Bộ luật Lao động.

Về nội dung: theo Hợp đồng lao động số 25/HĐLĐ ngày 19/8/2020, thời hạn làm việc của bà H từ ngày 01/8/2020 đến ngày 01/8/2021, thời gian làm việc 8 tiếng/ngày từ 7h30 đến 16h30, một tuần làm 6 ngày từ thứ 2 đến thứ 7, thời gian nghỉ trưa là từ 11h30 đến 12h30, ngày chủ nhật được nghỉ. Lương cơ bản

4.800.000 đồng, thưởng chuyên cần 300.000 đồng, phụ cấp nhà trọ 200.000 đồng, trách nhiệm 500.000 đồng, phụ cấp kỹ thuật 300.000 đồng. Hợp đồng lao động đã tuân thủ quy định tại Điều 21 Bộ luật Lao động về nội dung.

Mặc dù không tuân thủ về hình thức nhưng 02 hợp đồng lao động trên được hai bên thừa nhận và thực hiện theo nội dung đã ký kết.

  1. Hợp đồng lao động giữa bà Võ H và Công ty NKF đến ngày 01/8/2021 mới hết thời hạn, tuy nhiên ngày 01/6/2021, bà H đã ký Hợp đồng lao động số FH21892 với Công ty FH, thời hạn từ ngày 01/6/2021 đến 31/05/2022, công việc chuyên môn: đánh bóng, thời gian làm việc là 8 tiếng/ngày từ 7h30 đến 16h30, một tuần làm 6 ngày từ thứ 2 đến thứ 7, thời gian nghỉ trưa là từ 11h30 đến 12h30 và được nghỉ ngày chủ nhật. Lương cơ bản 4.729.400 đồng, thưởng chuyên cần 400.000 đồng, phụ cấp nhà trọ 100.000 đồng, phụ cấp xăng xe

    100.000 đồng.

    Trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận kể từ khi ký hợp đồng lao động số FH21892 ngày 01/6/2021 với Công ty FH, bà H không còn làm việc tại Công ty NKF theo nội dung Hợp đồng lao động số 25/HĐLĐ ngày 19/8/2020. Công ty NKF đã trả đủ lương cho bà H đến thời điểm ngày 01/6/2021. Lời trình bày và sự thừa nhận của nguyên đơn và bị đơn nêu trên phù hợp với diễn biến thời gian, sự việc vì theo Hợp đồng lao động số 25/HĐLĐ ngày 19/8/2020 giữa bà H với Công ty NKF thời hạn hợp đồng đến hết ngày 01/8/2021 và theo nội dung Hợp đồng lao động số FH21892 ngày

    01/6/2021 giữa bà H với Công ty FH thì bà H không thể làm cùng công việc chuyên môn là đánh bóng tại 02 công ty với thời gian làm việc 7h30 đến 16h30, một tuần làm 6 ngày từ thứ 2 đến thứ 7.

  2. Tại Công văn số 341/ĐKKD ngày 25/3/2022 và Công văn số 1367/ĐKKD ngày 09/11/2022 Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương cung cấp thông tin: Công ty NKF có trụ sở chính Lô R4, đường N10, khu công nghiệp K, phường B, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Người đại diện theo pháp luật là ông Võ V, sinh năm 1991; địa chỉ: số 93, ấp L, xã A, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Hoạt động theo mã số doanh nghiệp 3702735508 đăng ký lần đầu ngày 10/01/2019. Thời điểm hiện tại chưa ghi nhận thông tin đăng ký chia, tách, hợp nhất, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, thay đổi nội dung giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, tạm ngừng hay giải thể doanh nghiệp.

    Công ty FH có trụ sở chính lô W2, đường N6, khu công nghiệp K, phường B, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Người đại diện theo pháp luật là ông Shen Bao, sinh năm 1986 chức vụ Tổng giám đốc, hoạt động theo mã số doanh nghiệp 3702972273 đăng ký lần đầu ngày 15/4/2021. Thời điểm hiện tại chưa ghi nhận thông tin đăng ký chia, tách, hợp nhất, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, thay đổi nội dung giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, tạm ngừng hay giải thể doanh nghiệp.

    Tại biên bản xác minh ngày 15/03/2022, Ban quản lý khu công nghiệp K cung cấp thông tin Công ty NKF có trụ sở chính Lô R4, đường N10, khu công nghiệp K, phường B, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Công ty FH có trụ sở chính lô 2, đường N6, khu công nghiệp K, phường B, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

    Liên đoàn lao động thị xã Tân Uyên cung cấp thông tin Công ty NKF và Công ty FH chưa đăng ký thành lập công đoàn tại Liên đoàn lao động thị xã Tân Uyên.

    Phòng Lao động và Thương binh xã hội thị xã Tân Uyên cung cấp thông tin Công ty FH không thực hiện đề nghị hỗ trợ cho ông nhân theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 và Quyết định số 09/2021/QĐ-UBND ngày 16/7/2021 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương về hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid19.

  3. Theo nội dung xác minh và thông tin do các cơ quan có thẩm quyền cung cấp nêu trên, Toà án không xác định được mối liên hệ giữa Công ty NKF và Công ty FH. Người đại diện hợp pháp của Công ty FH, người đại diện hợp pháp của Công ty NKF và ông PJY không thừa nhận hai công ty nêu trên có mối liên hệ với nhau. Ông PJY không thừa nhận điều động bà H từ Công ty NKF đến làm việc tại Công ty FH.

    Tòa án đã triệu tập hợp lệ các đương sự tham gia đối chất làm rõ mâu thuẫn trong lời trình bày giữa các bên nhưng bà H từ chối đối chất, người đại diện hợp pháp của bị đơn và ông PJY vắng mặt, do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án.

    Theo các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cùng lời trình bày của nguyên đơn thì từ Hợp đồng lao động số 25/HĐLĐ ngày 19/8/2020 giữa bà H

    với Công ty NKF đến Hợp đồng lao động số FH21892 ngày 01/6/2021 giữa bà H với Công ty FH và Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn ngày 15/01/2022 đều do ông PJY ký.

    Theo chứng cứ do người đại diện hợp pháp của Công ty FH cung cấp là bản chấm lương thì ngày bắt đầu làm việc của bà H tại Công ty FH là ngày 25/4/2020 trong khi Công ty Heng Feng thành lập từ tháng 4/2021. Như vậy, ngày bắt đầu làm việc của bà H trùng hợp với thời gian bà H đang làm việc theo Hợp đồng lao động số 24/HĐLĐ ngày 19/8/2020 với Công ty NKF. Trên thực tế từ khi bà H làm việc tại Công ty NKF đến khi chuyển sang làm việc tại Công ty Heng Feng không có thời gian nghỉ việc hoặc tạm ngừng khi chuyển đổi giữa 02 công ty.

    Thời hạn hợp đồng lao động giữa bà H và Công ty NKF đến ngày 19/8/2021 mới hết hạn nhưng trên thực tế từ ngày 01/6/2021 bà H không làm việc cho Công ty NKF, nên không còn tồn tại quan hệ lao động giữa người người lao động và người sử dụng lao động, không tồn tại mối quan hệ có làm việc và có trả lương. Bà H làm việc và Công ty FH đang có nghĩa vụ trả lương nhưng theo chứng cứ Toà án thu thập được tại cơ quan Bảo hiểm xã hội thị xã Tân Uyên, Công ty FH không tham gia đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho bà H, Công ty NKF vẫn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người sử dụng lao động, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và chốt thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho bà H đến hết tháng 10/2021 và BHXH đã trả sổ cho bà H, trùng khớp với thời gian bà H nghỉ việc tại Công ty FH.

  4. Công ty Công ty FH không thừa nhận có yêu cầu bảo vệ không cho bà H vào làm việc mà do bà H không đến công ty làm việc. Công ty Bảo Vệ và ông Nguyễn Văn Mười là nhân viên bảo vệ trực cổng công ty tại thời điểm tháng 8, 9,10 năm 2021 cho biết không được Công ty FH yêu cầu và không thực hiện việc ngăn cản không cho công nhân bà Võ H vào công ty làm việc.

    Tại thời điểm ngày 15/01/2022 bà H không làm việc trên thực tế với Công ty NKF, giữa hai bên không còn tồn tại quan hệ lao động nhưng Công ty NKF vẫn ban hành Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn với bà H. Tại biên bản làm việc ngày 26/4/2022, người đại diện hợp pháp của Công ty FH thừa nhận sau khi đi cách ly do nhiễm bệnh Covid19, từ giữa tháng 10/2021 bà H không đến công ty làm việc công ty đã ra quyết định sa thải đối với bà H, nhưng vẫn thanh toán lương và bảo hiểm đầy đủ đồng thời làm hồ sơ công nhận hỗ trợ theo nghị quyết số 116/NQ-CP của Chính phủ.

    Từ những phân tích và chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định trên thực tế Công ty NKF và Công ty FH có mối quan hệ trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động với bà H.

    Thời điểm ngày 15/01/2022 bà H không còn làm việc trên thực tế với Công ty NKF, nhưng công ty vẫn ban hành Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn ngày 15/01/2022 là thừa nhận còn tồn tại mối quan hệ theo hợp đồng lao động với bà H. Trường hợp từ giữa tháng 10/2021 bà H không đến công ty làm việc sau khi đi cách ly để điều trị bệnh Covid19 theo trình bày của

    Công ty FH thì công ty phải lập biên bản xử lý vi phạm của bà H trước khi ra Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn ngày 15/01/2022. Công ty không chứng minh được bà H có đơn xin thôi việc theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự và vi phạm quy định tại Điều 36 Bộ luật Lao động về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động nên thuộc trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Lao động và phải liên đới bồi thường do đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

  5. Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc Công ty FH phải liên đới với Công ty NKF bồi thường cho bà H những ngày không được làm việc theo mức tiền lương 6.100.000 đồng/tháng. Trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn thừa nhận từ 01/6/2021 nguyên đơn làm việc tại Công ty FH, lương cơ bản

    4.729.400 đồng, thưởng chuyên cần 400.000 đồng, phụ cấp nhà trọ 100.000 đồng, phụ cấp xăng xe 100.000 đồng. Theo hợp đồng lao động số FH21892 ngày 01/6/2021 và xác nhận của BHXH thị xã Tân Uyên thì mức lương hàng tháng bà H đóng BHXH là 4.730.000 đồng. Các khoản thưởng chuyên cần

    400.000 đồng, phụ cấp nhà trọ 100.000 đồng, phụ cấp xăng xe 100.000 đồng chỉ được tính khi người lao động trực tiếp tham gia làm việc. Vì vậy chỉ có căn cứ xác định một phần yêu cầu của Hai với mức lương xác định trách nhiệm bồi thường là 4.730.000 đồng.

    Theo điều 41 Bộ luật lao động, bị đơn phải có nghĩa vụ bồi thường cho nguyên đơn như sau:

    Những ngày không được làm việc từ 01/11 đến ngày 31/5/2022:

    4.730.000 đồng x 07 tháng = 33.110.000 đồng

    02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động: 4.730.000 đồng x 02 tháng =

    9.460.000 đồng.

    Bồi thường do vi phạm thời gian báo trước là 30 ngày: 4.730.000 đồng. Tổng số tiền Công ty FH liên đới với Công ty NKF bồi thường cho bà

    Võ H: 47.300.000 đồng.

  6. Xét yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn Công ty NKF phải hủy bỏ Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn số 05-11/2021/QĐTV ngày 15/01/2022 và Công ty FH nhận bà H vào làm lại tại công ty. Trường hợp Công ty FH không nhận bà H lại làm việc thì Công ty FH phải liên đới với Công ty NKF bồi thường 04 tháng tiền lương 24.400.000 đồng:

    Thời hạn theo Hợp đồng lao động giữa bà H và Công ty FH là ngày 31/5/2022, đến thời điểm xét xử sơ thẩm Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu buộc bị đơn bồi thường tiền lương cho bà H đến ngày 31/5/2022, thời hạn hợp đồng lao động đã hết nên yêu cầu của bà H buộc Công ty FH nhận vào làm lại hoặc phải liên đới với Công ty NKF bồi thường 04 tháng tiền lương 24.400.000 đồng không có căn cứ chấp nhận.

  7. Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc Công ty FH và Công ty NKF phải liên đới đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 11/2021 đến ngày hết thời hạn ghi trong hợp đồng lao động 31/5/2022.

Tại Khoản 4 Điều 85 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định: người lao động quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 2 của Luật này mà giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động thì chỉ đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại khoản 1 Điều này đối với hợp đồng lao động giao kết đầu tiên.

Theo biên bản xác minh của Toà án tại Bảo hiểm xã hội thị xã Tân Uyên, từ tháng 10/2020 đến tháng 10/2021 (trong đó, tháng 10/2021 giảm nghỉ không lương) bà Võ H được Công ty NKF đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội thị xã Tân Uyên với mã số 7413239312 từ tháng 10/2020 đến tháng 10/2021. Ngày 10/01/2022 Bảo hiểm xã hội thị xã Tân Uyên đã thực hiện xác nhận quá trình đóng Bảo hiểm xã hội, giao về công ty để trả sổ cho bà H. Thời hạn hợp đồng lao động cũng hết từ ngày 19/8/2021 nên bà Võ H khởi kiện yêu cầu Công ty NKF phải tham gia đóng các khoản bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật cho bà H đến ngày 31/5/2022 do đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật không có căn cứ chấp nhận.

Thời điểm tháng 11/2021 giữa bà H với Công ty FH đang tồn tại mối quan hệ lao động theo Hợp đồng lao động số số FH21892 ngày 01/6/2021 nên Công ty FH và bà H thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, phải trích nộp vào quỹ bảo hiểm theo quy định và được chi trả khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Do đó Công ty FH phải thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng lao động, đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho bà H.

Từ 12/2021 đến 02/2022 bà H làm việc và tham gia đóng Bảo hiểm xã hội tại Công ty TNHH Response Việt Nam.

Theo quy định tại khoản 1, khoản 3, Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội và Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam về việc ban hành quy trình thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chỉ có căn cứ buộc Công ty FH đóng và xác nhận quá trình đóng các khoản bảo hiểm xã hội tháng 11/2022 theo quy định của pháp luật cho bà H.

[11]. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa không có căn cứ chấp nhận.

[12]. Về án phí: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận một phần, nên Công ty FH và Công ty NKF phải liên đới chịu án phí lao động sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

  • Căn cứ Điểm a, Khoản 1, Điều 32, Điều 35, Điều 39, Khoản 1 Điều 91,

    Điều 92, Điều 95, Điều 147, Điều 228, Điều 229 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

  • Căn cứ các Điều 14, 18, 20, 21, 39, 41, 90 và Điều 190 Bộ luật Lao động;

  • Căn cứ các Điều 24, 25, 26, 28, 29, 82, 83, 84, 85 và 86 Luật Bảo hiểm xã hội.

  • Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

  1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ H với bị đơn Công ty FH và Công ty NKF về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.

    Buộc Công ty FH và Công ty NKF phải liên đới bồi thường cho bà Võ H

    47.300.000 đồng (Bốn mươi bảy triệu ba trăm nghìn đồng).

    Buộc Công ty FH có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và trích từ khoản tiền bồi thường để đóng các khoản bảo hiểm xã hội tháng 11/2021 cho bà Võ H theo quy định của pháp luật trên mức lương 4.730.000 đồng tại cơ quan Bảo hiểm xã hội thị xã Tân Uyên ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

    Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi với số tiền chậm thi hành theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

  2. Không chấp nhận yêu cầu của bà Võ H về việc buộc Công ty NKF phải hủy bỏ Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 05-11/2021/QĐTV ngày 15/01/2022 và buộc Công ty FH nhận bà Võ H vào làm việc lại hoặc phải bồi thường 04 tháng tiền lương 24.400.000 đồng trong trường hợp không nhận vào làm việc lại.

    Không chấp nhận yêu cầu của của bà Võ H về việc buộc Công ty NKF và Công ty FHliên đới đóng các khoản bảo hiểm xã hội cho của bà Võ H từ tháng 12/2021 đến ngày 31/5/2022.

  3. Về án phí lao động sơ thẩm: Công ty NKF và Công ty FH phải liên đới nộp 1.419.000 đồng (Một triệu bốn trăm mười chín nghìn đồng).

  4. Nguyên đơn có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bán án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bán án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nơi nhận:

  • Các đương sự

    TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ

  • TAND tỉnh Bình Dương;

  • VKSND tỉnh Bình Dương;

  • VKSND thị xã Tân Uyên;

  • CCTHADS thị xã Tân Uyên (để thi hành);

  • Bảo hiểm xã hội thị xã Tân Uyên;

  • Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội thị xã Tân Uyên

  • Lưu: HS, VT.

Đỗ Thị Lan Hương

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 14/2022/LĐ-ST ngày 21/11/2022 của TAND TX. Tân Uyên, tỉnh Bình Dương về tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

  • Số bản án: 14/2022/LĐ-ST
  • Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 21/11/2022
  • Loại vụ/việc: Lao động
  • Tòa án xét xử: TAND TX. Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Bà Võ H tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với công ty FH và công ty NKF
Tải về bản án