Bản án số 14/2020/DS-PT ngày 03/03/2020 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số bản án: 14/2020/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tín dụng
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 03/03/2020
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hậu Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Về lãi suất, Hợp đồng tín dụng số HDTD801201703082 được ký kết thể hiện lãi suất trong hạn là 13%/năm. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng việc Ngân hàng L áp dụng lãi suất theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là chưa đúng vì ông Q, bà S thuộc trường hợp được hưởng lãi suất theo quy định khoản 2 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN. Xét thấy, theo quy định tại khoản 5 Điều 7 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN thì khách hàng là cá nhân, nếu muốn được hưởng lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN thì phải được tổ chức tín dụng đánh giá là có tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh và theo quy định tại phụ lục 8 Thông báo số 9346/2017 của Ngân hàng L thì khách hàng là cá nhân phải được Ngân hàng xếp hạng tín dụng là AAA và không có dư nợ từ nhóm 2 trở lên tại bất kỳ tổ chức tín dụng nào khác trong thời hạn 06 tháng gần nhất tính đến thời điểm xét duyệt khoản vay thì mới được xem là có tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh. Tại phiên tòa phúc thẩm, Ngân hàng cung cấp phiếu thông tin xếp loại khách hàng cá nhân thể hiện ông Q được xếp hạng tín dụng BBB, không đủ điều kiện để được áp dụng mức lãi suất cho vay theo khoản 2 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 14/2020/DS-PT ngày 03/03/2020 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số bản án: 14/2020/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tín dụng
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 03/03/2020
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hậu Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Về lãi suất, Hợp đồng tín dụng số HDTD801201703082 được ký kết thể hiện lãi suất trong hạn là 13%/năm. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng việc Ngân hàng L áp dụng lãi suất theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là chưa đúng vì ông Q, bà S thuộc trường hợp được hưởng lãi suất theo quy định khoản 2 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN. Xét thấy, theo quy định tại khoản 5 Điều 7 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN thì khách hàng là cá nhân, nếu muốn được hưởng lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN thì phải được tổ chức tín dụng đánh giá là có tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh và theo quy định tại phụ lục 8 Thông báo số 9346/2017 của Ngân hàng L thì khách hàng là cá nhân phải được Ngân hàng xếp hạng tín dụng là AAA và không có dư nợ từ nhóm 2 trở lên tại bất kỳ tổ chức tín dụng nào khác trong thời hạn 06 tháng gần nhất tính đến thời điểm xét duyệt khoản vay thì mới được xem là có tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh. Tại phiên tòa phúc thẩm, Ngân hàng cung cấp phiếu thông tin xếp loại khách hàng cá nhân thể hiện ông Q được xếp hạng tín dụng BBB, không đủ điều kiện để được áp dụng mức lãi suất cho vay theo khoản 2 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN.