Hệ thống pháp luật
THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 13/2020/HNGĐ-ST ngày 10/09/2020 của TAND TX. Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn

  • Số bản án: 13/2020/HNGĐ-ST
  • Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 10/09/2020
  • Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
  • Tòa án xét xử: TAND TX. Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Tôi và ông Đ trước kia là vợ chồng với nhau có đăng ký kết hôn ngày 27/7/2001 tại UBND thị trấn B, huyện K (Nay là phường A, thị xã B). Hiện nay chúng tôi đã ly hôn với nhau theo Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 07/2018/HNGĐ-ST ngày 21/3/2018 của Tòa án nhân dân thị xã B và bản án Hôn nhân gia đình phúc thẩm số 20/2018/HNGĐ-PT ngày 06/9/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. + Quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất có diện tích 104m2, thuộc thửa đất số 881, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại tổ dân phố V, thị trấn B, huyện K ( nay là Tổ dân phố V, phường A, thị xã B) đã được UBND huyện K (nay là thị xã B) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 217265 ngày 06-02-2007 mang tên Tô Tấn Đ. Tài sản này đa được phân chia theo bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 07/2018/HNGĐ-ST và Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 20/2018/HNGĐ-PT nên không đề cập. + Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất có diện tích 3996,9m2, thuộc thửa đất số 33, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại phường A, thị xã B, đã được UBND thị xã B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 090534, ngày 29-4-2014 mang tên ông Tô Tấn Đ và bà Huỳnh Thị Lệ X. Nguồn gốc diện tích đất này do chị X và anh Đ mua của ông Tô Tấn B (bố ông Đ) vào khoảng năm 2011 với giá là 60.000.000 đồng. Khi mua bán chỉ nói miệng với nhau, không lập thành văn bản. Đến ngày 21/4/2014 chị X và anh Đ xác lập văn bản công nhận tài sản chung của vợ chồng. Đến ngày 29/4/2014 UBND thị xã B cấp giấy chứng nhận QSD đất mang tên ông Tô Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Lệ X. Do năm 2011 mua bán đất với ông B không có lập thành văn bản, nên đến ngày 18/4/2014 UBND thị xã B cấp giấy CNQSD đất mang tên một mình ông Đ nên mới có việc lập văn bản công nhận tài sản chung để trong giấy CNQSD đất mang tên ông Tô Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Lệ X. Vì đây là tài sản chung của vợ chồng nên tôi đề nghị Tòa án chia đôi diện tích đất rẫy trên, chia bằng rẫy để tôi có đất canh tác.
Tải về bản án