TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI TỈNH AN GIANG | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
Bản án số: 12/2021/HNGĐ-ST Ngày: 08/01/2021 V/v tranh chấp “Ly hôn, nuôi |
|
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hà Huy Phong
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Võ Lâm Sơn
Bà Đào Thị Thu Vân
Thư ký phiên tòa: Bà Lê Tường Vi, Thư ký Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang: không tham gia phiên tòa.
Ngày 08 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 639/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp“Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 554/2020/QĐ-ST ngày 30/11/2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết T, sinh năm 1987; địa chỉ: tổ 26, ấp Bình Quới, xã B.P.X, huyện C.M, tỉnh An Giang, (Có mặt).
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1983; địa chỉ: tổ 26, ấp Bình Quới, xã B.P.X, huyện C.M, tỉnh An Giang, (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/10/2020, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Nguyễn Thị Tuyết T trình bày: chị và anh Nguyễn Văn B quen biết, sau một thời gian tìm hiểu cả hai tiến đến hôn nhân vào năm 2013, có tổ chức lễ cưới, vợ chồng có đăng ký kết hôn vào tháng 04/02/2013 tại UBND xã B.P.X, huyện C.M; vợ chồng chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẩn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp, hay cãi vã, đã không còn sống chung với nhau từ thời điểm đó đến nay. Nay thấy tình cảm không còn, không thể hàn gắn nên chị T xin ly hôn với anh Nguyễn Văn B.
Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Văn K, sinh ngày 07/12/2003 và Nguyễn Gia B, sinh ngày 01/07/2012. Hiện nay, 02 cháu đang sống cùng với chị T, chị T chăm sóc nuôi, dưỡng. Sau khi ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung. Không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con.
Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: không có, không yều cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Tòa án thụ lý vụ án do anh Nguyễn Văn Bình tuy được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vẫn vắng mặt, không có văn bản trình bày ý kiến.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải mục đích động viên các bên có thể giải quyết mâu thuẩn, bất đồng quan điểm, hàn gắn đoàn tụ với nhau nhưng phía bị đơn không có mặt theo triệu tập nên không thể tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án dân sự.
Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vắng mặt. Các bên không thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang không tham gia phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn được xác định là quan hệ tranh chấp về“Ly hôn, nuôi con chung” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
[1.2] Về thẩm quyền: Bị đơn Nguyễn Văn B, cư trú tại xã B.P.X, huyện Chợ Mới nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt các thông báo, giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật cho các bên đương sự. Bị đơn Nguyễn Văn B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ mà vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất vào ngày 17/12/2020 nên Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa. Phiên tòa được mở lại vào ngày 08/01/2020, Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vẫn tiếp tục vắng mặt không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt bị đơn.
Về quan hệ hôn nhân:
[2.1] Về tính hợp pháp: Chị Nguyễn Thị Tuyết T và anh Nguyễn Văn B kết hôn trên cơ sở tình yêu tự nguyện, tự do tìm hiểu, không bị ai lừa dối hay ép buộc,
có đăng ký kết hôn vào ngày 04/02/2013 tại UBND xã B.P.X, huyện Chợ Mới, phù hợp với Giấy chứng nhận kết hôn do UBND xã B.P.X cấp mà chị Trinh giao nộp có trong hồ sơ. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân của chị Tuyết T và anh B là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.
[2.2] Đánh giá về tình trạng hôn nhân: vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, căng thẳng, không còn sống chung đã hơn 01 năm nay, anh B đi làm ăn xa không còn liên lạc, không quan tâm gì đến vợ con, nguyên nhân là do vợ chồng không tin tưởng nhau trong tình cảm, thiếu trách nhiệm trong cuộc sống gia đình.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập đến các phiên hòa giải tạo điều kiện giúp các bên hàn gắn tình cảm, giải quyết bất hòa, mâu thuẩn nhưng anh B đều vắng mặt, điều này thể hiện anh B không có thiện chí hợp tác, hiện nay vợ chồng vẫn sống ly thân và không quan tâm đến nhau, cuộc sống riêng lẻ của từng người, không còn mục tiêu để xây dựng một gia đình mà ở đó có sự yêu thương, quan tâm, cùng chia sẽ những vất vả, lo toan trong cuộc sống. Điều đó chứng tỏ quan hệ vợ chồng không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện cho chị Nguyễn Thị Tuyết T được ly hôn anh Nguyễn Văn B là phù hợp.
Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Văn K, sinh ngày 07/12/2003 và Nguyễn Gia B, sinh ngày 01/07/2012. Hiện nay, 02 cháu đang sống cùng với chị Trinh, từ khi anh B bỏ đi làm ăn xa, chị T chăm sóc, nuôi dưỡng 02 cháu phát triển về mọi mặt. Sau khi ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung, không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con. Tại các văn bản trình bày ý kiến, nguyện vọng của 02 con chung đều được sống cùng mẹ, nên cần thiết ổn định tâm lý cho các cháu, tạo điều kiện để các cháu phát triển bình thường nên giao 02 con chung cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng chăm sóc, anh B không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản, nợ chung: không yêu cầu, nên không đặt ra xem xét.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tuyết T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.
Về quyền kháng cáo: chị T, anh B được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, 35, 147, 273; khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015; Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tuyết T. Cho chị Nguyễn Thị Tuyết T được ly hôn với anh Nguyễn Văn B.
Giấy chứng nhận kết hôn số 12/KH, quyển số 01/2013 do UBND xã B.P.X, huyện Chợ Mới cấp cho chị Nguyễn Thị Tuyết T và anh Nguyễn Văn B không còn giá trị pháp lý.
Về con chung: Giao 02 con chung tên Nguyễn Văn K, sinh ngày 07/12/2003 và Nguyễn Gia B, sinh ngày 01/07/2012 cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành; anh B không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Không bên nào được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: không có, nên không đặt ra giải quyết.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tuyết T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008868 ngày 05/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, chị T đã nộp xong.
Quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Tuyết T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn B được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hà Huy Phong |
Bản án số 12/2021/HNGĐ-ST của TAND huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Số bản án: 12/2021/HNGĐ-ST
- Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 08/01/2021
- Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
- Tòa án xét xử: TAND huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tuyết T. Cho chị Nguyễn Thị Tuyết T được ly hôn với anh Nguyễn Văn B. Giấy chứng nhận kết hôn số 12/KH, quyển số 01/2013 do UBND xã B.P.X, huyện Chợ Mới cấp cho chị Nguyễn Thị Tuyết T và anh Nguyễn Văn B không còn giá trị pháp lý. 2. Về con chung: Giao 02 con chung tên Nguyễn Văn K, sinh ngày 07/12/2003 và Nguyễn Gia B, sinh ngày 01/07/2012 cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành; anh B không phải cấp dưỡng nuôi con chung.