TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 117/2020/HNGĐ-ST Ngày: 25-6-2020 V/v:“Tranh chấp ly hôn” | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Thanh Xuân
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Huỳnh Thị Kim Kiên – Hội liên hiệp phụ nữ thành phố B.
Ông Trần Văn Chánh - Cán bộ hưu trí.
Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Trần Nhàn – Thư ký Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Loan – Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B – tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 41/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2020, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 213/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 148/2020/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm 1975;
Địa chỉ: 103 Phạm Văn Thuận, đường 1053, khu phố 6, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Bị đơn: Ông Nguyễn Việt C, sinh năm 1973.
Địa chỉ: 103 Phạm Văn Thuận, đường 1053, khu phố 6, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
(Bà M, ông C vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên bà Nguyễn Thị Ngọc M trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông C kết hôn với nhau từ năm 1997, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, hôn nhân là tự nguyện. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn, ngày càng trầm trọng, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống và lối sống. Vợ chồng bà cũng đã
nhiều lần hàn gắn nhưng không thành. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông C nên xin được ly hôn.
Về con chung: Có 02 con chung là Nguyễn Minh P, sinh ngày 16/9/2001 và Nguyễn Thanh N, sinh ngày 16/01/2007. Khi ly hôn bà xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, bà không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung. Riêng cháu P đã trưởng thành không yêu cầu Toà án giải quyết.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng và giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho ông Nguyễn Việt C đến Tòa làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông C vắng mặt không có lý do nên không có lời khai.
Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định. Bị đơn thực hiện không đúng.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của bà M. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thanh N, sinh ngày 16/01/2007 cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời ông C không phải cấp dưỡng nuôi con. Riêng cháu Nguyễn Minh P đã trưởng thành không yêu cầu Toà án giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung không đặt ra giải quyết. Bà M phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về quan hệ pháp luật, tư cách đượng sự: Bà Nguyễn Thị Ngọc M yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Việt C, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thanh N, sinh ngày 16/01/2007. Căn cứ vào Điều 28, Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”; bà Nguyễn Thị Ngọc M là nguyên đơn, ông Nguyễn Việt C là bị đơn.
Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Ngọc M nộp đơn yêu cầu giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Việt C hiện đang cư trú 103 Phạm Văn Thuận, đường 1053, khu phố 6, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thị Ngọc M có đơn xin xét xử vắng mặt, Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của pháp
luật, nhưng ông Nguyễn Việt C vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ngọc M và ông Nguyễn Việt C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 160 ngày 26/12/1997 nên áp dụng Điều 5, Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 xác định là hôn nhân hợp pháp.
Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Ngọc M: Theo bà M trình bày sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian rồi bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, lối sống, hiện cả hai đã sống ly thân không còn quan tâm yêu thương chăm sóc cho nhau. Tòa án cũng đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho ông C đến Tòa làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông C vẫn vắng mặt, cho thấy ông C không muốn níu kéo cuộc hôn nhân này. Mặt khác, theo Biên bản xác minh nơi bà M, ông C đang cư trú thì địa phương cho biết ông C hiện đang sinh sống tại địa phương; trong quá trình sống chung giữa hai vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân cụ thể thì địa phương không nắm rõ do đương sự không trình báo nhưng vì giữa hai vợ chồng xảy ra mâu thuẫn nên hiện nay đang sống ly thân. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà M và ông C đã thật sự trầm trọng, không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc bà M xin ly hôn với ông C là có cơ sở. Do đó, Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc M.
Về con chung: Trong quá trình sống chung bà M và ông C có 02 chung là Nguyễn Minh P, sinh ngày 16/9/2001 và Nguyễn Thanh N, sinh ngày 16/01/2007. Khi ly hôn bà M yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con. Riêng cháu Nguyễn Minh P đã trưởng thành không yêu cầu Toà án giải quyết. Vì không lấy được lời khai của ông C và cũng để đảm bảo cuộc sống ổn định cho cháu N nên tạm thời giao cháu cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời ông C không cấp dưỡng nuôi con chung. Sau khi ly hôn, bà M, ông C vẫn phải có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung. Ông C có quyền thăm nom con; không ai được cản trở thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Theo bà M trình bày là vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do bị đơn vắng mặt chưa có lời khai về tài sản chung, nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Về nợ chung: Theo bà M trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do bị đơn vắng mặt chưa có lời khai về nợ chung, nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Về án phí: Bà M phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 203, Điều 220, Điều 238, Điều 266, Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 5, Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc M. Bà Nguyễn Thị Ngọc M được ly hôn với ông Nguyễn Việt C.
Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thanh N, sinh ngày 16/01/2007 cho của bà Nguyễn Thị Ngọc M trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời ông Nguyễn Việt C không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Riêng cháu Nguyễn Minh P đã trưởng thành nên không đặt ra giải quyết.
Vì không trực tiếp nuôi con nên ông C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con, khi cần thiết các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.
Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ngọc M phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0001479 ngày 13/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.
Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Phạm Thị Thanh Xuân |
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ | THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA |
Bản án số 117/2020/HNGĐ-ST của TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Số bản án: 117/2020/HNGĐ-ST
- Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 25/06/2020
- Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
- Tòa án xét xử: TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Bà M xin ly hôn với ông C