Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bản án số: 113/2020/HS-ST Ngày : 29/9/2020

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Tô Trần Ái Vy

Các Hội thẩm nhân dân:

1/ Bà Trần Hoàng Ngọc Hà 2/ Ông Vũ Trung Kiên

  • Thư ký phiên tòa: Bà Dương Thị Ngọc Lữ – Thư ký tòa án nhân dân quận Tân Bình - Tp. Hồ Chí Minh

  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Ông Võ Văn Lập - Kiểm sát viên

Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 132/2020/TLST- HS ngày 04 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

M; giới tính: nam; sinh năm 2001 tại Đắk Lắk; nơi đăng ký thường trú: Thôn 4, xã J, huyện M, tỉnh Đ; địa chỉ tạm trú: số 18T đường 18, phường C, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn T, sinh năm 1968 và bà: Nguyễn Thị X, sinh năm 1974; Hoàn cảnh gia đình: chưa vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; bị cáo được áp dụng biện pháp bảo lĩnh tại ngoại (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại:

1/ Bà Võ Thị Thu T, sinh năm: 1998; Địa chỉ: đừng C, Phường T, quận G, TP.HCM. (Vắng mặt).

2/ Ông Trương Quang T, sinh năm: 1999; Địa chỉ: 41/27 đường L, Phường B, quận G, TP.HCM. (Vắng mặt).

3/ Ông Võ Quang H, sinh năm: 2001, Địa chỉ: đường X, Phường S, quận B, TP.HCM. (Vắng mặt).

4/ Bà Lê Thị Thường D, sinh năm: 1997; Địa chỉ: 37 Đường 9, Phường c, quận G, TP.HCM. (Có mặt).

5/ Ông Bùi Công H, sinh năm: 2001, địa chỉ: 240/5/25 đường 52, phường T, Quận M, TP.HCM. (Vắng mặt)

6/ Bà Vũ Thị Hồng N, sinh năm: 1999, địa chỉ: 79/62A đường Đ, Phường C, Quận B, TP.HCM. (Vắng mặt)

7/ Ông Tô Thành C, sinh năm: 2001. địa chỉ: 26 đường V, Phường B, quận T, TP.HCM. (Có mặt)

8/ Bà Nguyễn Anh T, sinh năm: 1999, địa chỉ: 4/70 đường TL40, phường L, Quận M, TP.HCM. (Vắng mặt)

9/ Bà Trương Thị L, sinh năm: 1999; địa chỉ: đường L, Phường M, quận T, TP.HCM. (Vắng mặt)

10/ Bà Lê Thị Tuyết T, sinh năm: 2000; địa chỉ: 114 đường G, Phường N, quận T, TP.HCM. (Vắng mặt)

11/ Ông Nguyễn Trường S, sinh năm: 1998, địa chỉđường L, phường A, quận B, TP.HCM. (Vắng mặt)

12/ Bà Trần Thị Mai L, sinh năm: 2001, địa chỉ: 5A đường C, Phường N, quận G, TP. Hồ Chí Minh. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Phạm Thị L, sinh năm 1965, địa chỉ: Tổ 4, phường T, TP. X, Bình Phước. (Vắng mặt).

2/ Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1974, trú tại: Thôn B, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

M là nhân viên làm việc tại kho hàng Công ty Tiki, địa chỉ: 367/F-370 Bạch Đằng, Phường 2, quận Tân Bình, từ ngày 28/10/2019 đến ngày 01/11/2019. Quá trình làm việc, M biết nhân viên trước khi vào làm việc tại kho hàng, phải để đồ cá nhân tại khu vực riêng nên đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 01/11/2019, M lén lút đến khu vực để đồ của nhân viên, lục soát các túi đồ trên kệ, lấy trộm được 13 điện thoại di động, cụ thể: của chị Võ Thị Thu T01 điện thoại Iphone 6 Plus màu xám; của anh Trương Quang T1 01 điện thoại Samsung J3 màu trắng; của anh Võ Quang H 01 điện thoại Samsung J600 màu đen; của chị Lê Thị Thường D 01 điện thoại Samsung Galaxy S8 màu đen; của anh Bùi Công H 01 điện thoại Samsung Galaxy S9 màu đen; của chị Vũ Thị Hồng N 01 điện thoại Samsung galaxy A20 màu xanh đen; của anh Tô Thành C 01 điện thoại Xiaomi Redmi Note 7 màu xanh, có ốp lưng bên trong có 1.000.000 đồng; của chị Trương Thị L 01 điện thoại Oppo A71 màu hồng; của chị Nguyễn Anh T 01 điện thoại Oppo F9 màu đỏ và 04 điện thoại chưa xác định được bị hại gồm: 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu đen; 01 điện thoại Xiaomi Redmi Note 7 màu đen; 01 điện thoại Xiaomi A2 màu vàng; 01 điện thoại Oppo không rõ tên sản phẩm. Tất cả bỏ vào ba lô trộm cắp được, đem về chỗ ở tại số 18T Tân Chánh Hiệp, phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12. Sau đó, thông qua mạng Facebook, M bán cho Nguyễn Văn Lượng 10 điện thoại, thu được tổng số tiền 10.000.000 đồng và thông qua trang Web “Chợ tốt”, bán cho 03 người không rõ lai lịch, 03 điện thoại còn lại, thu được số tiền 6.000.000 đồng.

M sử dụng số tiền 17.000.000 đồng chiếm đoạt được mua 01 xe máy Yamaha Sirius biển số 93N4-2059 với giá 8.000.000 đồng; cho mẹ là bà Nguyễn Thị Xuân 500.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết 8.500.000 đồng.

Đối với 13 điện thoại các loại không thu hồi được, theo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 104/HĐĐGTA-TTHS ngày 13/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định: (1) Samsung Galaxy S8, trị giá

4.500.000 đồng; (2) Samsung J3, trị giá 1.200.000 đồng; (3) OPPO A71, trị giá

1.200.000 đồng; (4) Samsung Galaxy S9, trị giá 6.000.000 đồng; (5) Samsung J600, trị giá 3.000.000 đồng; (6) OPPO F9, trị giá 3.500.000 đồng; (7) Samsung A20, trị giá 3.000.000 đồng; (8) Iphone 6 Plus, trị giá 2.700.000 đồng; (9) Xiaomi Note 7 màu xanh trị giá 4.000.000 đồng và 1.000.000 đồng.

Đối với 04 điện thoại còn lại chưa xác định được bị hại nên chưa có cơ sở làm rõ trị giá tài sản để thẩm định giá trị.

Lần 2: Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 27/11/2019, M tiếp tục lén lút vào khu vực để đồ cá nhân của nhân viên công ty Tiki, trộm cắp 01 balo màu xanh của anh Tô Thành C, bên trong có 01 điện thoại Xiaomi Redmi Note 7 màu xanh được; 01 ví màu hồng của chị Lê Thị Tuyết T1 bên trong có 01 điện thoại Samsung J2 Pro; 01 túi đeo chéo màu đen của anh Nguyễn Trường S bên trong có 01 điện thoại Oppo F5 màu vàng và một số giấy tờ, đồ dùng cá nhân của các bị hại, đem về bán 02 điện thoại Xiaomi và Oppo cho 02 người không rõ lai lịch đặt mua qua ứng dụng Chợ Tốt, thu được 3.000.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết số tiền này, riêng điện thoại Samsung J2 của chị Lê Thị Tuyết T và các đồ vật khác M khai đã ném bỏ.

Đối với 03 điện thoại các loại (không thu hồi được), theo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 105/HĐĐGTA-TTHS ngày 13/5/2020 của Hội

đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định: điện thoại Xiaomi Note 7 màu xanh trị giá 4.000.000 đồng; OPPO F5, trị giá 2.700.000 đồng; Samsung J2 Pro, trị giá 1.600.000 đồng.

Lần 3: Khoảng 17 giờ 50 ngày 30/11/2019, M tiếp tục lén lút đột nhập khu vực kho hàng Công ty Tiki, trộm cắp 01 ba lô màu đỏ của chị Trần Thị Mai Linh, bên trong có 200.000 đồng, 01 điện thoại di động Huawei Y9; 01 điện thoại Mobell và một số giấy tờ cá nhân. M cất giấu 02 điện thoại di động và số tiền

200.000 đồng trên người và vứt bỏ các đồ vật còn lại.

Theo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 59/HĐĐGTA-TTHS ngày 06/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định điện thoại Huawei Y9, trị giá 2.690.000 đồng; 01 điện thoại Mobell, trị giá 210.000 đồng; 01 balo nữ màu đỏ, trị giá 80.000 đồng và 200.000 đồng.

Đến ngày 06/12/2019, qua điều tra làm rõ tố cáo của các bị hại và điều tra làm rõ toàn bộ vụ án, Cơ quan điều tra phát hiện và chứng minh được toàn bộ hành vi phạm tội của M. Tại Cơ quan điều tra, M đã khai nhận tội phạm và giao nộp lại số tiền 200.000 đồng; 02 điện thoại di động chiếm đoạt được của chị Linh, chưa tiêu thụ được.

Quá trình điều tra, bà Nguyễn Thị X (mẹ ruột M), đã giao nộp số tiền

3.000.000 đồng để khắc phục một phần hậu quả hành vi phạm tội của M.

Đối với việc một số nhân viên khác của kho hàng Tiki khai báo bị mất trộm tài sản, quá trình điều tra không đủ cơ sở quy kết M đã trộm cắp các tài sản này.

Tang vật thu giữ trong vụ án: 01 quần dài màu đen, 01 áo thun ngắn tay màu đen, 01 áo thun dài tay màu trắng; 01 xe máy Yamaha Sirius, biển số 93N- 2059; 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen; Số tiền 3.000.000 đồng; 01 USB chứa dữ liệu hình ảnh M có hành vi trộm cắp tài sản các ngày 27/11/2019 và 30/11/2019.

Tại bản cáo trạng số 118/CT-VKSQTB ngày 31 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

  • Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hính sự và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 01 năm tù.

    Về vật chứng, Viện kiểm sát đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

  • Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo, đồng ý bồi thường thiệt hại cho tất cả người bị hại.

  • Người bị hại bà Lê Thị Thường D yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền

4.500.000 đồng, ông Tô Thành C yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 9.000.000 đồng, bà Trần Thị Mai L yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí làm lại giấy tờ tùy thân là 1.500.000 đồng. Bà D, ông Cvà bà L đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo.

- Bà Nguyễn Thị X trình bày: Trước đó bị cáo có cho bà 500.000 đồng, tuy nhiên bà không biết tiền này do bị cáo phạm tội mà có. Tại cơ quan điều tra, bà có giao nộp số tiền 3.000.000 đồng để giúp bị cáo khắc phục hậu quả. Vào ngày 21/9/2020, trong khi chờ xét xử sơ thẩm, bị cáo có nhờ bà nộp lại số tiền

41.380.000 đồng để khắc phục hậu quả của vụ án. Bà yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo. Đối với số tiền khắc phục hậu quả còn thừa bà yêu cầu Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

  1. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo M, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

  2. Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo M đã có hành vi lén lút chiếm đoạt nhiều điện thoại di động và một số tài sản khác của nhiều người bị hại với tổng số tiền chiếm đoạt là 41.380.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

    Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam, lười lao động nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Bị cáo 03 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của nhiều người bị hại gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, Hội đồng xét xử xét

    thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

  3. Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả của vụ án. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

  4. Về trách nhiệm dân sự:

    Bị hại bà Võ Thị Thu Tyêu cầu bồi thường số tiền 2.700.000 đồng; ông Trương Quang T1 yêu cầu bồi thường số tiền 1.200.000 đồng; ông Võ Quang H yêu cầu bồi thường số tiền 3.000.000 đồng; bà Lê Thị Thường D yêu cầu bồi thường số tiền 4.500.000 đồng; ông Bùi Công H yêu cầu bồi thường số tiền

    6.000.000 đồng; bà Vũ Thị Hồng N yêu cầu bồi thường số tiền 3.000.000 đồng, ông Tô Thành Ch yêu cầu bồi thường số tiền là 9.000.000 đồng; bà Lê Thị Tuyết T yêu cầu bồi thường số tiền 1.600.000 đồng; bà Trương Thị L yêu cầu bồi thường số tiền 1.200.000 đồng; ông Nguyễn Trường S số tiền yêu cầu bồi thường

    2.700.000 đồng; bà Nguyễn Anh T yêu cầu bồi thường số tiền 3.500.000 đồng; bà Trần Thị Mai L đã nhận lại tài sản bị mất, bà chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí làm lại giấy tờ tùy thân với số tiền là 1.500.000 đồng. Xét yêu cầu của các bị hại là phù hợp quy định tại Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 589 của Bộ luật dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận, buộc bị cáo có trách nhiệm trả cho các bị hại cụ thể:

    • Bà Võ Thị Thu T số tiền 2.700.000 đồng

    • Ông Trương Quang T số tiền 1.200.000 đồng

    • Ông Võ Quang H số tiền 3.000.000 đồng

    • Bà Lê Thị Thường D số tiền 4.500.000 đồng

    • Ông Bùi Công Hậu số tiền 6.000.000 đồng

    • Bà Vũ Thị Hồng N số tiền 3.000.000 đồng

    • Ông Tô Thành C số tiền 9.000.000 đồng

    • Bà Lê Thị Tuyết T số tiền 1.600.000 đồng

    • Bà Trương Thị L số tiền 1.200.000 đồng.

    • Ông Nguyễn Trường S số tiền 2.700.000 đồng

    • Bà Nguyễn Anh T số tiền 3.500.000 đồng.

    • Bà Trần Thị Mai L số tiền 1.500.000 đồng.

    Vào ngày 21/9/2020, bị cáo đã tự nguyện nộp lại số tiền 41.380.000 đồng để khắc phục toàn bộ hậu quả của vụ án. Do đó Hội đồng xét xử ghi nhận việc bị cáo đã thi hành xong nghĩa vụ bồi thường cho các bị hại nêu trên. Tổng số tiền bị

    cáo có trách nhiệm bồi thường cho các bị hại là 39.900.000 đồng. Do đó Bị cáo được nhận lại số tiền là 1.480.000 đồng.

  5. Về tang vật vụ án:

    • Đối với xe máy Yamaha Sirius màu vàng đen, biển số 93N4-2059 thu giữ của bị cáo, qua xác minh xe do bà Phạm Thị L đăng ký sở hữu, bà L khai đã bán xe trên cho 1 cửa hàng xe máy vào năm 2012, không lập hợp đồng mua bán, bà đã giao xe và giấy tờ đăng ký xe cho cửa hàng nên bà không có yêu cầu gì. Bị cáo M khai bị cáo dùng tiền bán tài sản trộm cắp được mua xe trên với giá 8.000.000 đồng, việc mua bán thực hiện qua mạng nên không nhớ rõ người bán, hai bên chỉ hẹn gặp nhau giao tiền và giao xe không lập hợp đồng mua bán. Do đó Hội đồng xét xử quyết định giao cho Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian 01 năm, nếu không làm việc được với chủ sở hữu hợp pháp thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu thì giải quyết theo quy định của pháp luật.

    • Đối với điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus màu đen thu giữ của bị cáo, xét đây là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

    • Đối với 01 quần dài và 02 áo thun do bị cáo giao nộp không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

    • Đối với 01 USB chứa dữ liệu hình ảnh bị cáo trộm cắp tài sản, xét đây là tài liệu chứng cứ về hành vi phạm tội của bị cáo cần tịch thu và chuyển lưu vào hồ sơ vụ án.

    • Đối với số tiền 3.000.000 đồng do bà Nguyễn Thị X (mẹ của bị cáo) tự nguyện giao nộp tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình để bị cáo khắc phục hậu quả của vụ án. Bị cáo khai sau khi bán tài sản trộm cắp bị cáo cho mẹ bị cáo 500.000 đồng, bà X khai bị cáo có cho bà 500.000 đồng tuy nhiên bà không biết tiền này do bị cáo phạm tội mà có, do đó Hội đồng xét xử quyết định tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 500.000 đồng. Do bị cáo đã nộp lại số tiền bồi thường cho tất cả những người bị hại nên Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo số tiền 2.500.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều 106, Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 589 của Bộ luật dân sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

  1. Tuyên bố bị cáo M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

    Xử phạt bị cáo: M 01(Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

  2. Về phần dân sự:

    • Ghi nhận bị cáo đã thi hành xong trách nhiệm bồi thường cho các bị hại.

    • Bà Võ Thị Thu T được nhận số tiền 2.700.000 (Hai triệu bảy trăm ngàn)

      đồng.

    • Ông Trương Quang T1 được nhận số tiền 1.200.000 (Một triệu hai trăm

      ngàn) đồng.

    • Ông Võ Quang H được nhận số tiền 3.000.000 (Ba triệu) đồng.

    • Bà Lê Thị Thường D được nhận số tiền 4.500.000 (Bốn triệu năm trăm ngàn) đồng.

    • Ông Bùi Công H được nhận số tiền 6.000.000 (Sáu triệu) đồng.

    • Bà Vũ Thị Hồng N được nhận số tiền 3.000.000 (Ba triệu) đồng.

    • Ông Tô Thành C được nhận số tiền 9.000.000 (Chín triệu) đồng.

    • Bà Lê Thị Tuyết Tđược nhận số tiền 1.600.000 (Một triệu sáu trăm ngàn)

      đồng. đồng.

      • Bà Trương Thị L được nhận số tiền 1.200.000 (Một triệu hai trăm ngàn)

      • Ông Nguyễn Trường S được nhận số tiền 2.700.000 (Hai triệu bảy trăm

        ngàn) đồng.

        • Bà Nguyễn Anh T được nhận số tiền 3.500.000 (Ba triệu năm trăm ngàn)

          đồng.

        • Bà Trần Thị Mai L được nhận số tiền 1.500.000 (Một triệu năm trăm

          ngàn) đồng.

        • Trả lại cho bị cáo số tiền 1.480.000 (Một triệu bốn trăm tám chục ngàn)

      đồng.

      (Theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0068344 ngày 21/9/2020

      do bà Nguyễn Thị Xuân nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Tân Bình, TP.Hồ Chí Minh).

      [4] Xử lý vật chứng của vụ án:

      • Tịch thu và nộp vào ngân sách nhà nước: số tiền 500.000 (Năm trăm ngàn) đồng.

      • Giao 01 xe máy Yamaha Sirius màu vàng đen, biển số 93N4-2059; số máy: 5C64-344379, số khung: RLCS5C640AY-344372 cho Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian 01 năm, nếu không làm việc được với chủ sở hữu hợp pháp thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

      • Tịch thu tiêu hủy: 01 quần dài màu đen, 01 áo thun ngắn tay màu đen và 01 áo thun dài tay màu trắng (có chữ ký và họ tên của M).

      • Trả lại cho bị cáo M 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus màu đen, sê ri: F2MT3E4S4G04 (đã niêm phong);

      • Trả lại cho bị cáo số tiền 2.500.000 (Hai triệu năm trăm ngàn) đồng.

      • Tịch thu và lưu giữ vào hồ sơ vụ án 01 USB chứa dữ liệu hình ảnh M trộm cắp tài sản tại kệ để đồ của kho hàng công ty Tiki vào ngày 27, 30/11/2019 (đã niêm phong).

      (Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 97/BB/2020 ngày 16/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình).

  3. Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

  4. Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nơi nhận:

  • Bị cáo, bị hại;

  • Công an quận Tân Bình;

  • VKSND quận Tân Bình;

  • Chi cục THADS quận Tân Bình;

  • TAND, VKSND Tp. Hồ Chí Minh;

  • Phòng HSNVCS CA Tp. HCM;

  • Sở Tư pháp Tp. Hồ Chí Minh;

  • Lưu hồ sơ vụ án.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa

Tô Trần Ái Vy

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 113/2020/HS-ST của TAND Q. Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh

  • Số bản án: 113/2020/HS-ST
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 29/09/2020
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND Q. Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Phạm Đức Mạnh phạm tội trộm cắp tài sản
Tải về bản án