Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN TỈNH BÌNH DƢƠNG

——————————

Bản án số: 11/2021/LĐ-ST Ngày 30-11-2021

V/v tranh chấp về bảo hiểm xã hội

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

———————————————————

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Ngân.

Các Hội thẩm nhân dân:

  1. Bà Nguyễn Thị Thu Vân – Cử nhân luật;

  2. Ông Nguyễn Văn Hoàn.

    • Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Anh Ly - Thƣ ký Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dƣơng.

    • Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình DươngBà Nguyễn Thị Hạnh - Kiểm sát viên.

Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dƣơng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Lao động thụ lý số: 55/2020/TLST-LĐ ngày 09 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội” theo quyết định đƣa vụ án ra xét xử số 10/2021/QĐXXST-LĐ ngày 08/7/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2021/QĐST-LĐ ngày 06/8/2021, Thông báo mở lại phiên tòa số 55/2021/TB-TA ngày 15/10/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2021/QĐST-LĐ ngày 03 tháng 11 năm 2021, giữa các đƣơng sự:

  • Nguyên đơn: Chị Lâm Thị D, sinh năm 1988; địa chỉ: ấp B, xã B1, huyện C, tỉnh B. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

  • Bị đơn:

+ Công ty TNHH P; địa chỉ: 53/3 Nguyễn Thị Minh Khai, khu phố T, phƣờng T1, thành phố D, tỉnh B.

Ngƣời đại diện hợp pháp: Bà Tôn Thanh Th, sinh năm 1971; địa chỉ: 5/4 Nguyễn Văn Lƣợng, Phƣờng 16, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; chức vụ: giám đốc; là ngƣời đại diện theo pháp luật. Vắng mặt

+ Công ty TNHH P2; địa chỉ: Số 1191 Lê Đức Thọ, Phƣờng 13, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngƣời đại diện hợp pháp: Bà Tôn Thanh Th, sinh năm 1971; địa chỉ: 5/4 Nguyễn Văn Lƣợng, Phƣờng 16, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; là ngƣời đại diện theo pháp luật. Vắng mặt.

- Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bảo hiểm xã hội thành phố D, tỉnh B, địa chỉ: Trung tâm hành chính thành phố D, tỉnh B.

Ngƣời đại diện hợp pháp: Anh Dƣơng Văn Tr, địa chỉ: Trung tâm hành chính thành phố D, tỉnh B; chức vụ: Nhân viên; là ngƣời đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 08/12/2020). Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

- Theo đơn khởi kiện ngày 28 tháng 9 năm 2020, đơn khởi kiện bổ sung

Chị Lâm Thị D làm việc tại Công ty TNHH P2 (gọi tắt là Công ty P) từ ngày 21/10/2014, chức danh: lao động phổ thông, địa điểm làm việc: 53/3 Nguyễn Thị Minh Khai, khu phố T, phƣờng T1, thành phố D, tỉnh B. Giữa chị và Công ty P có ký kết hợp đồng lao động, tham gia bảo hiểm xã hội và hàng tháng công ty đều trích giữ lại một phần lƣơng của chị tƣơng ứng với phần trăm đóng bảo hiểm xã hội theo quy định. Mức lƣơng cơ bản của chị D từ năm 2014 là 3.317.000 đồng/tháng, từ 01/01/2017 mức lƣơng là 4.213.000 đồng/tháng.

Từ tháng 02/2018, chị đƣợc biết công ty chuyển sang loại hình pháp nhân là Công ty TNHH P. Chị D ký kết hợp đồng lao động với Công ty TNHH P và tiếp tục làm việc với chức danh: lao động phổ thông, cùng địa điểm làm việc nhƣ trên. Mức lƣơng cơ bản của chị là 4.471.530 đồng/tháng.

Đến tháng 02/2019 do sức khỏe giảm sút nên chị D nộp đơn xin nghỉ việc và đƣợc công ty chấp nhận, chị chính thức nghỉ việc từ ngày 20/02/2019. Chị đã nhiều lần liên hệ công ty để làm các thủ tục chốt sổ bảo hiểm xã hội nhƣng công ty không thực hiện. Công ty TNHH P2 và Công ty TNHH P giữ toàn bộ các hợp đồng lao động ký kết với ngƣời lao động, chị chỉ đƣợc công ty giao 01 bản Hợp đồng lao động ngày 01/01/2016 giữa chị và Công ty TNHH P2.

Nay chị D khởi kiện yêu cầu: Buộc Công ty TNHH P2 xác nhận quá trình tham gia bảo hiểm xã hội cho chị D từ tháng 1/2016 đến tháng 01/2018; Buộc Công ty TNHH P xác nhận quá trình tham gia bảo hiểm xã hội cho chị từ tháng 02/2018 đến tháng 02/2019.

Chứng cứ do nguyên đơn cung cấp: Hợp đồng lao động ngày 01/01/2016 giữa chị Lâm Thị D và Công ty TNHH P2; Sổ Bảo hiểm xã hội.

Các bị đơn Công ty TNHH P2 và Công ty TNHH P: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt cho các bị đơn thông báo thụ lý vụ án, thông báo yêu cầu cung cấp chứng cứ, yêu cầu tham gia phiên họp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhƣng các bị đơn không đến Tòa án làm việc, không có văn bản trình bày

ý kiến phản đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không có yêu cầu phản tố, không cung cấp tài liệu, chứng cứ.

- Tại bản tự khai ngày 29/12/2020, người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố D là anh Dương Văn Tr trình bày:

Chi nhánh Công ty TNHH P2 bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tại BHXH thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An) từ tháng 03/2011, tính đến tháng 11/2020 Chi nhánh Công ty TNHH P2 còn nợ số tiền 4.181.479.752 đồng, đã nộp tiền bảo hiểm xã hội đến hết tháng 5/2016. Chi nhánh Công ty TNHH P2 tham gia BHXH cho chị Lâm Thị D tại BHXH thành phố D với số sổ 7412029615 từ tháng 5/2015 đến tháng 01/2018 (chƣa chốt sổ). Về yêu cầu chốt sổ bảo hiểm xã hội của chị D tại Công ty TNHH P2 thì BHXH thành phố D có ý kiến: đề nghị Chi nhánh Công ty TNHH P2 thanh toán số tiền bảo hiểm còn nợ riêng của chị Lâm Thị D cho cơ quan BHXH thành phố D và làm hồ sơ bảo lƣu BHXH lên BHXH thành phố D để bảo lƣu sổ, trả sổ cho ngƣời lao động theo quy định.

Công ty TNHH P bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tại BHXH thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An) từ tháng 02/2018. Tính đến tháng 11/2020 Công ty P Bình Dƣơng còn nợ số tiền 3.478.381.449 đồng, đã nộp tiền bảo hiểm xã hội đến hết tháng 02/2018. Công ty TNHH P tham gia BHXH cho chị D tại BHXH thành phố D từ tháng 02/2018 đến tháng 01/2019 (chƣa chốt sổ bảo lƣu). Đối với yêu cầu khởi kiện của chị D, BHXH thành phố D đề nghị Công ty TNHH P thanh toán số tiền còn nợ BHXH, BHYT, BHTN tính riêng của chị D từ tháng 3/2018 đến tháng 01/2019 và làm hồ sơ bảo lƣu BHXH gửi lên cơ quan BHXH thành phố D để chốt sổ cho chị D theo đúng quy định.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trƣớc thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thƣ ký phiên tòa và ngƣời tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn và ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, các bị đơn đƣợc Tòa án triệu tập hợp lệ tới tham gia phiên tòa lần thứ hai nhƣng vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ vào Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những ngƣời tham gia tố tụng là đúng quy định. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập và các đƣơng sự cung cấp đã đƣợc thẩm tra tại phiên tòa, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận một phần. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

1 Về thủ tục tố tụng:

1.1 Căn cứ vào quan hệ lao động giữa nguyên đơn và bị đơn, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp lao động, cụ thể là “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội”. Bị đơn Công ty TNHH P có trụ sở tại

53/3 Nguyễn Thị Minh Khai, khu phố T, phƣờng T1, thành phố D, tỉnh B; đối với bị đơn Công ty TNHH P2 thì nguyên đơn lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp là nơi tổ chức có chi nhánh, đồng thời cũng là nơi nguyên đơn làm việc tại số 53/3 Nguyễn Thị Minh Khai, khu phố T, phƣờng T1, thành phố D, tỉnh B. Do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An theo điểm c khoản 1 Điều 35 và điểm b, đ khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

1.2 Các bị đơn Công ty TNHH P2 và Công ty TNHH P đã đƣợc Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhƣng vắng mặt không có lý do; nguyên đơn và ngƣời đại diện theo ủy quyền của ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội Dĩ An có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những ngƣời tham gia tố tụng.

  1. Về nội dung: Nguyên đơn trình bày có phát sinh quan hệ lao động với các bị đơn từ tháng 5/2015 đến tháng 02/2019. Quá trình làm việc nguyên đơn đƣợc bị đơn tham gia bảo hiểm xã hội và hàng tháng bị đơn vẫn trích tiền lƣơng của nguyên đơn để tham gia bảo hiểm xã hội. Qúa trình tố tụng, Tòa án đã yêu cầu bị đơn cung cấp chứng cứ là các bản hợp đồng lao động ký kết với nguyên đơn nhƣng bị đơn không cung cấp, đồng thời không cung cấp ý kiến phản đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự. Mặt khác lời khai của nguyên đơn phù hợp với ý kiến của ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố Dĩ An, phù hợp với các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp. Nhƣ vậy có căn cứ xác định giữa nguyên đơn với bị đơn có quan hệ lao động với nhau trên cơ sở hợp đồng lao động. Hợp đồng lao động giữa nguyên đơn và bị đơn trên tinh thần tự nguyện, không trái quy định của pháp luật nên có giá trị và hiệu lực thi hành. Việc đóng và xác nhận quá trình tham gia bảo hiểm xã hội là trách nhiệm của ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 19 và khoản 2 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội. Từ tháng 01/2016 đến hết tháng 01/2018, Công ty TNHH P2 (chi nhánh Dĩ An) có tham gia BHXH cho chị D và từ tháng 02/2018 đến tháng 01/2019, Công ty TNHH P tham gia BHXH cho chị D tại BHXH thành phố D. Công ty TNHH P2 và Công ty TNHH P hàng tháng có trách nhiệm trích tiền lƣơng của ngƣời lao động để đóng vào quỹ BHXH. Nay nguyên đơn không còn làm việc tại công ty bị đơn, tuy nhiên bị đơn không đóng bảo hiểm xã hội, không lập thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn giai đoạn từ tháng 06/2016 đến tháng 01/2018 và từ tháng 3/2018 đến tháng 01/2019 là xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động theo quy định tại khoản 5 Điều 21 và là hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014; khoản 2 và khoản 3 Điều 47 Bộ Luật lao động. Đối với khoảng thời gian từ tháng 01/2016 đến tháng 5/2016 và tháng 02/2018, các bị đơn đã đóng đủ BHXH cho ngƣời lao động nên không cần buộc bị đơn đóng BHXH cho thời gian này, bị đơn phải phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội để lập hồ sơ xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho ngƣời lao động theo quy định.

    Ngoài ra, nguyên đơn yêu cầu xác nhận thời gian đóng bảo hiểm của tháng 02/2019 nhƣng không cung cấp đƣợc chứng cứ chứng minh nên căn cứ vào hồ sơ

    tại cơ quan BHXH thành phố D để xác định thời gian làm việc và tham gia BHXH của nguyên đơn là đến tháng 01/2019.

  2. Từ những phân tích trên có đủ sơ sở chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

  3. Về án phí: Nguyên đơn chị Lâm Thị D đƣợc miễn án phí. Bị đơn Công ty TNHH P2 và Công ty TNHH P phải chịu án phí lao động sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 91, 144, 147, 235, 238, 244, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ Điều 47 Bộ luật Lao động năm 2012; căn cứ Điều 19 và Điều

21 Luật Bảo hiểm xã hội; căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

  1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lâm Thị D đối với bị đơn Công ty TNHH P2 và bị đơn Công ty TNHH P về việc “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội”:

    1. Buộc Công ty TNHH P2 phải đóng bảo hiểm xã hội cho chị Lâm Thị D trong khoảng thời gian làm việc từ tháng 6/2016 đến tháng 01/2018 và lập hồ sơ xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội của chị Lâm Thị D từ tháng 01/2016 đến tháng 01/2018.

    2. Buộc Công ty TNHH P phải đóng bảo hiểm xã hội cho chị Lâm Thị D trong khoảng thời gian làm việc từ tháng 3/2018 đến tháng 01/2019 và lập hồ sơ xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội của chị Lâm Thị D từ tháng 02/2018 đến tháng 01/2019.

  2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lâm Thị D về việc buộc bị đơn Công ty TNHH P xác nhận thời gian tham gia bảo hiểm xã hội của tháng 02/2019.

  3. Về án phí lao động sơ thẩm:

    • Chị Lâm Thị D đƣợc miễn án phí.

    • Công ty TNHH P2 phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

    • Công ty TNHH P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

  4. Nguyên đơn, bị đơn và ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt đƣợc quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mƣời lăm) ngày, kể từ ngày nhận đƣợc bản án hoặc bản án đƣợc niêm yết.

Trƣờng hợp bản án, quyết định đƣợc thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì ngƣời đƣợc thi hành án dân sự, ngƣời phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành

án hoặc bị cƣỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án đƣợc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nơi nhận:

  • TAND tỉnh Bình Dƣơng;

  • VKSND TP Dĩ An;

  • Chi cục THADS TP Dĩ An;

  • Đƣơng sự;

  • Lƣu: VT; HS.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Nguyễn Thị Ngân

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 11/2021/LĐ-ST ngày 30/11/2021 của TAND TX. Dĩ An, tỉnh Bình Dương

  • Số bản án: 11/2021/LĐ-ST
  • Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 30/11/2021
  • Loại vụ/việc: Lao động
  • Tòa án xét xử: TAND TX. Dĩ An, tỉnh Bình Dương
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Tr/c về BHXH giữa chị Lâm Thị D và Công ty TNHH P
Tải về bản án