TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Y THÀNH PHỐ HỒ CHÍ M Bản án số: 108/2021/HS - ST Ngày: 16/11/2021 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Y THÀNH PHỐ HỒ CHÍ M
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Phương Thúy Hội thẩm nhân dân:
Bà Võ Thanh Nga
Bà Đinh Kim Hoàng
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Phan Quế Anh – Thư ký Tòa án nhân dân Quận Y, Thành phố Hồ Chí M.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Y tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Công Vũ – Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Y, Thành phố Hồ Chí M xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 152/2021/TLST – HS ngày 29 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 529/2021/QĐXXST – HS ngày 01 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:
1/ Trần Bảo Linh M Ng, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1991 tại TP. Hồ Chí M; hộ khẩu thường trú: 183A4/16 T, Phường X, Quận Y, TP. Hồ Chí M; nơi cư trú: 874/56/25 Đ, Phường H, Quận Y; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hữu T, sinh năm 1958 và bà Trần Thị N, sinh năm 1959; chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn với Phạm Hoàng M chưa có con chung; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 06/01/2021, “Có mặt”.
2/ Phạm Hoàng M (tên gọi khác: Đen), sinh ngày 07 tháng 01 năm 1985 tại TP. Hồ Chí M; hộ khẩu thường trú: 874/56/25 Đ, Phường H, Quận Y, TP. Hồ Chí M; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn B, sinh năm 1953 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960; trước chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn với Lê Diệu Hi, sinh năm 1990 và có 01 con chung (sinh năm 2008); năm 2010 chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn với Trần Bảo Linh M Ng, sinh năm 1991 và chưa có con chung; bị bắt, tạm giam ngày 15/6/2021, “Có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Phạm Hoàng M và Trần Bảo Linh M Ng sống chung như vợ chồng và cùng cư trú tại địa chỉ 874/56/25 Đ, Phường H, Quận Y do bà Nguyễn Thị H (là mẹ của M) thuê từ tháng 11/2020 đến nay để gia đình sử dụng ở. M và Ng đều là người nghiện ma túy và thường sử dụng ma túy "đá" tại phòng ngủ của M và Ng, ở tầng trệt căn nhà trên. Vào khoảng 20 giờ ngày 05/01/2021, Ng chơi game bắn cá trên điện thoại trúng thưởng được số tiền 16.000.000 đồng nên nảy sinh ý định mua ma túy sử dụng. Ng đi một mình đến một con hẻm gần khu vực cầu Kênh Xáng thuộc Quận 8. Tại đây, Ng gặp một người đàn ông tên thường gọi là “Sáu” (không rõ lai lịch) mua 06 gói ma túy với giá 10.000.000 đồng. Trong lúc chờ mua, Ng còn nhặt được 01 gói
nylon chứa chất bột màu vàng, Ng nghĩ đây là ma túy nên đã cất giấu để dành sử dụng. Sau khi mua và nhặt được ma túy, Ng đem tất cả số ma túy trên về nhà tại số 874/56/25 đường Đ, Phường H, Quận Y. Khi về đến nhà, Ng đem cất 05 (năm) gói ma túy mua được và 01 gói nylon chứa chất bột màu vàng nhặt được ở trước nhà, đem một gói vào trong nhà thì gặp M, Ng nói cho M biết là mới mua ma túy về và đi vào phòng ngủ, lấy gói ma túy trích ra một ít bỏ vào bình hút có sẵn rồi kêu M vào sử dụng chung. Sau khi sử dụng còn lại một phần ma túy thì Ng phân chia thành 03 gói ma túy “đá” nhỏ cất vào một hộp kim loại bên ngoài có chữ Tycoon có sẵn treo ở phía sau cửa nhà tắm phòng ngủ của M. Lúc này, M sử dụng ma túy xong đi ra ngoài phòng khách thấy Ng cất giữ số ma túy trên nhưng vẫn đồng ý để Ng treo. Sau đó, Ng tiếp tục đi ra trước nhà lấy tất cả số ma túy còn lại là 05 gói ma túy và 01 gói nylon chứa chất bột màu vàng để vào trong 01 hộp màu đen có sẵn cùng với 03 gói ma túy đã phân chia trước đó (được để trong 01 hộp kim loại bên ngoài có ghi chữ Tycoon) cùng các dụng cụ mà Ng dùng để phân chia ma túy (cân điện tử, nhiều gói nylon nhỏ, muỗng nhựa, kéo); bỏ vào bịch nylon treo phía sau cửa phòng ngủ ở tầng trệt. Khi Ng ra ngoài lấy số ma túy còn lại ở trước nhà bỏ vào bịch nylon treo ở phía sau phòng ngủ, lúc này M đang ở phòng khách không biết việc Ng tiếp tục đem ma túy cất giữ ở phòng ngủ nên vẫn ngồi xem tivi. Đến khuya ngày 05/01/2021, M đã đi ngủ, Ng nằm chơi game trên điện thoại, Phạm M C (là em ruột của M) vào phòng ngủ nói chuyện với Ng, Cảnh nhìn thấy bình hút còn một ít ma túy nên đã đốt và sử dụng. Lúc này, Ng lấy một trong ba gói ma túy nhỏ trong hộp kim loại, bên ngoài có chữ Tycoon, bỏ thêm một ít ma túy vào nỏ và sử dụng chung với C. Đến khoảng 12 giờ 15 phút ngày 06/01/2021, Ng cầm bịch nylon chứa ma túy và các dụng cụ dùng để phân chia ma túy kiểm tra lại thì bị Công an Quận Y kiểm tra hành chính phát hiện đưa M, Ng về trụ sở Công an Phường H, Quận Y lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ: 01 (một) hộp màu đen (kiểu hộp đựng đồng hồ) bên trong có 05 (năm) gói nylon chứa tinh thể không màu nghi vấn là ma túy và 01(một) gói nylon bên trong có chứa chất bột màu vàng nghi vấn là ma túy; 01 (một) hộp kim loại bên ngoài có chữ Tycoon bên trong có 03 (ba) gói nylon chứa tinh thể không màu nghi vấn là ma túy; 01 (một) cân điện tử màu trắng có chữ Marlboro; 02 (hai) muỗng nhựa màu trắng. Ngoài ra, Cơ quan điều tra Công an Quận Y còn thu giữ một số hộp giấy bên trong có chứa nhiều gói nylon không có gì; 01 (một) chai nhựa trên có gắn ống thủy tinh và ống nhựa để sử dụng ma túy, 03 (ba) điện thoại di động và số tiền Ngân hàng NNVN 950.000 (chín trăm năm mươi nghìn) đồng.
Tại bản kết luận giám định số 443/KLGĐ-H ngày 14/01/2021 của Phòng kỹ
thuật hình sự - Công an TP. Hồ Chí M kết luận: 02 (hai) gói niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Trần Bảo Linh M Ng, điều tra viên và hình dấu Công an Phường H, Quận Y bên trong có:
+ Gói 1: 01 (một) hộp màu đen chứa tinh thể không màu trong 05 (năm) gói nylon đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng: 40,2563g (bốn mươi phẩy hai năm sáu ba) gam, loại Methamphetamine.
+ Bột màu vàng trong 01 (một) gói nylon đều là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3439g (không phẩy ba bốn ba chín) gam, loại MDMA.
- Gói 2: Tinh thể không màu trong 03 (ba) gói nylon (để trong hộp kim loại) đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 4,3691g (bốn phẩy ba sáu chín một) gam, loại Methamphetamine.
Tại Cơ quan điều tra Công an Quận Y, Trần Bảo Linh M Ng và Phạm Hoàng M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Đối với người đàn ông tên “Sáu” bán ma túy cho Ng tại khu vực cầu Kênh Xáng thuộc Quận 8, Cơ quan điều tra - Công an Quận Y không xác định được nhân thân lai lịch, nên không có căn cứ để làm rõ. Đối
với bà Nguyễn Thị H (mẹ của M), không biết việc cất giữ ma túy của Ng, không biết việc Ng, M, Cảnh có sử dụng ma túy trong phòng ngủ thuộc căn nhà do bà Hai thuê để ở, nên Cơ quan điều tra Công an Quận Y không có cơ sở để xử lý đối với bà Nguyễn Thị H. Đối với Phạm M C (em ruột của M), có hành vi sử dụng chung ma túy với Ng, Cơ quan điều tra Công an Quận Y ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 14/01/2021, Cảnh bị Cơ quan điều tra Công an Quận Y khởi tố và tạm giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” xảy ra tại khu vực đường T, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí M.
Đối với Trần Bảo Linh M Ng khai nhận có hành vi chơi game bắn cá online trên điện thoại di động của Ng và thắng được số tiền 16.000.000 (mười sáu triệu) đồng. Ng đã sử dụng tiền mua ma túy hết 10.000.000 (mười triệu) đồng, còn lại tiêu xài cá nhân hết. Hiện Cơ quan điều tra Công an Quận Y chưa xác định được trang mạng Ng truy cập vào để chơi game, ngoài lời khai của Ng, Cơ quan điều tra Công an Quận Y không thu thập được tài liệu, chứng cứ nào khác, nên không có cơ sở để xử lý.
Tại Cáo trạng số 135/CT – VKS ngày 29/7/2021 Viện kiểm sát nhân dân Quận Y – TP. Hồ Chí M truy tố bị cáo Trần Bảo Linh M Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Phạm Hoàng M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa: Các bị cáo Trần Bảo Linh M Ng và Phạm Hoàng M có lời khai thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, Kết luận điều tra và Cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Y trình bày lời luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Bảo Linh M Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Phạm Hoàng M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 249, khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Bảo Linh M Ng từ 11 (mười một) năm đến 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và xử phạt bị cáo từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Phạm Hoàng M từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
Bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an Quận Y, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận Y, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố
đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các biên bản tự khai, biên bản lấy lời khai các bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo Trần Bảo Linh M Ng và Phạm Hoàng M đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Qua lời khai của các bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như kết luận giám định có đủ cơ sở để kết luận: Trần Bảo Linh M Ng có hành vi cất giấu 05 (năm) gói nylon chứa tinh thể không màu, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 40,2563g (bốn mươi phẩy hai năm sáu ba) gam, loại Methamphetamine; 01 (một) gói nylon chứa chất bột màu vàng, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3439g (không phẩy ba bốn ba chín) gam, loại MDMA; 03 (ba) gói nylon chứa tinh thể không màu, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,3691g (bốn phẩy ba sáu chín một) gam, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng là 44,6254g (bốn mươi bốn phẩy sáu hai năm bốn) gam Methamphetamine và 0,3439g (không phẩy ba bốn ba chín) gam MDMA, nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo Trần Bảo Linh M Ng đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đối với bị cáo Phạm Hoàng M thường xuyên sử dụng chung ma túy với Ng, ngày 05/01/2021 sau khi sử dụng chung ma túy với Ng, M biết Ng cất giấu 4,3691g (bốn phẩy ba sáu chín một) gam, loại Methamphetamine tại cửa phòng ngủ của M nhằm mục đích sử dụng, nhưng đồng ý nên Phạm Hoàng M với vai trò đồng phạm đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Ngoài ra, bị cáo Trần Bảo Linh M Ng có hành vi cung cấp ma túy, dụng cụ sử dụng ma túy, địa điểm sử dụng ma túy và cùng sử dụng chung ma túy với Phạm M Cảnh nên hành vi của bị cáo Trần Bảo Linh M Ng đã phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Do đó, quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận Y đối với hành vi của các bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.
Hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Đây là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn khác, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Xét, về nhân thân của các bị cáo:
Bị cáo Trần Bảo Linh M Ng và Phạm Hoàng M không có tiền án, tiền sự nhưng với hành vi phạm tội của các bị cáo như đã nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức hình phạt thật nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo mới tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.
Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên khi lượng hình có xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt.
Ngoài ra, Hội đồng xét xử quyết định phạt tiền bổ sung đối bị cáo Ng và M, phạt mỗi bị cáo số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Về xử lý vật chứng:
02 (hai) gói niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Bảo Linh M Ng, Điều tra viên Võ Văn Hùng và hình dấu Công an Phường H, Quận Y, bên trong là ma túy còn lại sau giám định. Xét, ma túy là chất độc hại không sử dụng được và cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.
01 (một) cân điện tử màu trắng có chữ Marlboro; 02 (hai) muỗng nhựa màu trắng; 01 (một) cây kéo bắng kim loại; 02 (hai) ống nhựa không màu; 01 (một) hộp giấy màu xám bên ngoài có chữ Garmin, bên trong có nhiều gói nylon bên trong không có gì; 01 (một) hộp giấy màu vàng trắng, bên ngoài có chữ 2in1 NS Lipstick bên trong có chứa nhiều gói nylon bên trong không có gì. Đây là dụng cụ Ng dung để phân chia ma túy. Xét, đây là dụng cụ bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội, là vật không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.
01 (một) chai nhựa không màu, trên nắp có gắn một ống thủy tinh và một ống nhựa, là dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá do bị cáo Ng tự làm để sử dụng ma túy. Xét, đây là dụng cụ bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội, là vật không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy
Ngoài ra, Cơ quan điều tra Công an Quận Y thu giữ một số đồ vật, tài liệu như sau: Thu giữ của Trần Bảo Linh M Ng:
+ 01 (một) điện thoại Samsung A405FN màu trắng, đã qua sử dụng. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đây là chiếc điện thoại mà bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy. Xét, đây là phương tiện bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
Thu giữ của Phạm Hoàng M: 01 (một) điện thoại Oppo A37 màu vàng – trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại Vivo 1907 màu xanh, đã qua sử dụng. Tại phiên tòa bị cáo xác nhận hai chiếc điện thoại này là tài sản cá nhân không liên quan đến hành vi phạm tội nên giao trả lại Phạm Hoàng M, nhưng được tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
+ Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 950.000 (chín trăm năm mươi nghìn) đồng. Cơ quan điều tra Công an Quận Y đã nhập kho bạc nhà nước Quận Y. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đây là số tiền bị cáo làm phụ hồ có được. Xét, đây là tài sản cá nhân nên giao trả lại Phạm Hoàng M, nhưng được tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Về án phí HSST: Mỗi bị cáo Trần Bảo Linh M Ng và Phạm Hoàng M phải nộp án phí hình sự sơ thẩm với số tiền là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm h khoản 3 Điều 249, khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Xử phạt: Trần Bảo Linh M Ng 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành là 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06 tháng 01 năm 2021.
Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
Xử phạt: Phạm Hoàng M 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/6/2021.
Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
2017:
- Căn cứ khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
Phạt tiền bị cáo Trần Bảo Linh M Ng 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung vào
ngân sách nhà nước.
Phạt tiền bị cáo Phạm Hoàng M 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
+ Tịch thu, tiêu hủy: 02 (hai) gói niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định; 01 (một) cân điện tử màu trắng có chữ Marlboro; 02 (hai) muỗng nhựa màu trắng; 01 (một) cây kéo bắng kim loại; 02 (hai) ống nhựa không màu; 01 (một) hộp giấy màu xám bên ngoài có chữ Garmin, bên trong có nhiều gói nylon bên trong không có gì; 01 (một) hộp giấy màu vàng trắng, bên ngoài có chữ 2in1 NS Lipstick bên trong có chứa nhiều gói nylon bên trong không có gì; 01 (một) chai nhựa không màu, trên nắp có gắn một ống thủy tinh và một ống nhựa, là dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá.
+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại Samsung A405FN màu trắng, đã qua sử dụng.
+ Trả lại Phạm Hoàng M 01 (một) điện thoại Oppo A37 màu vàng – trắng, đã qua sử dụng và 01 (một) điện thoại Vivo 1907 màu xanh, đã qua sử dụng, nhưng được tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
+ Trả lại Phạm Hoàng M tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 950.000 (chín trăm năm mươi nghìn) đồng, nhưng được tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
(Theo biên bản giao, nhận vật chứng số 21, ngày 27/10/2021 giữa Công an Quận Y và Chi cục Thi hành án dân sự Quận Y; Giấy nộp tiền vào tài khoản Kho bạc nhà nước Quận Y lập ngày 21/10/2021).
Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí Tòa án năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án:
Bị cáo Trần Bảo Linh M Ng phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
Bị cáo Phạm Hoàng M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng
Về quyền kháng cáo:
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm. Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
|
(2) (1) (1) (1) (2) (1) (1) (1) (3) (2) | TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Phương Thúy |
Bản án số 108/2021/HS-ST ngày 16/11/2021 của TAND Quận 4, TP. Hồ Chí Minh
- Số bản án: 108/2021/HS-ST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 16/11/2021
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND Quận 4, TP. Hồ Chí Minh
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: 1/ Trần Bảo Linh M Ng, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1991 tại TP. Hồ Chí M; hộ khẩu thường trú: 183A4/16 T, Phường X, Quận Y, TP. Hồ Chí M; nơi cư trú: 874/56/25 Đ, Phường H, Quận Y; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hữu T, sinh năm 1958 và bà Trần Thị N, sinh năm 1959; chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn với Phạm Hoàng M chưa có con chung; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 06/01/2021, “Có mặt”. 2/ Phạm Hoàng M (tên gọi khác: Đen), sinh ngày 07 tháng 01 năm 1985 tại TP. Hồ Chí M; hộ khẩu thường trú: 874/56/25 Đ, Phường H, Quận Y, TP. Hồ Chí M; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn B, sinh năm 1953 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960; trước chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn với Lê Diệu Hi, sinh năm 1990 và có 01 con chung (sinh năm 2008); năm 2010 chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn với Trần Bảo Linh M Ng, sinh năm 1991 và chưa có con chung; bị bắt, tạm giam ngày 15/6/2021, “Có mặt”.