Bản án số 106/2020/HNGĐ-ST của TAND tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Số bản án: 106/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 13/11/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: chị Nguyễn Thị Ng trình bày: Tôi và anh S có được tự do tìm hiểu và chúng tôi được sự nhất trí của hai bên gia đình đã tự nguyện kết hôn với nhau, đăng kí kết hôn ngày 02/12/2005 tại UBND xã ĐH, huyện YT, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn vợ chông tôi chung sống với bình thường, thỉnh thoảng vợ chồng có xảy ra cãi vã, nguyên nhân là do vợ chồng tôi không hợp nhau về mọi mặt, vợ chồng không có tiếng nói chung, hôn nhân không được hạnh phúc nhưng chúng tôi vẫn cố gắng chung sống để nuôi dạy con. Đến năm 2013 tôi đi lao động tại Đài Loan, trong thời gian tôi đi lao động thì vợ chồng tôi vẫn liên lạc với nhau và đến năm 2015 tôi và gia đình đã lo cho anh S đi lao động tại Đài Loan đến đầu năm 2016 tôi hết hạn hợp đồng về nước. Chúng tôi không còn tình cảm với nhau nữa nên chúng tôi đã sống ly thân, tôi và anh S đã thống nhất với nhau qua điện thoại tôi về nhà bố mẹ đẻ tôi sống và tôi sẽ nuôi cháu Q2, còn cháu Q1 thì để cho anh S nuôi. Nay chị xin ly hôn và không yêu cầu giải quyết nuôi con chung.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 106/2020/HNGĐ-ST của TAND tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Số bản án: 106/2020/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 13/11/2020
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: chị Nguyễn Thị Ng trình bày: Tôi và anh S có được tự do tìm hiểu và chúng tôi được sự nhất trí của hai bên gia đình đã tự nguyện kết hôn với nhau, đăng kí kết hôn ngày 02/12/2005 tại UBND xã ĐH, huyện YT, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn vợ chông tôi chung sống với bình thường, thỉnh thoảng vợ chồng có xảy ra cãi vã, nguyên nhân là do vợ chồng tôi không hợp nhau về mọi mặt, vợ chồng không có tiếng nói chung, hôn nhân không được hạnh phúc nhưng chúng tôi vẫn cố gắng chung sống để nuôi dạy con. Đến năm 2013 tôi đi lao động tại Đài Loan, trong thời gian tôi đi lao động thì vợ chồng tôi vẫn liên lạc với nhau và đến năm 2015 tôi và gia đình đã lo cho anh S đi lao động tại Đài Loan đến đầu năm 2016 tôi hết hạn hợp đồng về nước. Chúng tôi không còn tình cảm với nhau nữa nên chúng tôi đã sống ly thân, tôi và anh S đã thống nhất với nhau qua điện thoại tôi về nhà bố mẹ đẻ tôi sống và tôi sẽ nuôi cháu Q2, còn cháu Q1 thì để cho anh S nuôi. Nay chị xin ly hôn và không yêu cầu giải quyết nuôi con chung.