TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ LONG XUYÊN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH AN GIANG
Bản án số:103/2020/HNGĐ – ST Ngày: 20 /8/2020
V/v “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Đức Anh.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Lê Quốc Dũng;
Bà Lê Thị Thanh Vân.
Thư ký phiên tòa: Ông Đặng Thành Thái – Thư ký Tòa án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên tham gia phiên tòa: Ông Dương Chí Thanh – Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 329/2020/TLST-HNGĐ, ngày 08 tháng 6 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 200/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 216/2020/QĐST – HNGĐ ngày 27/7/2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Hồ Thị X, sinh năm 1990.
Địa chỉ: Tổ 30, ấp P1, xã H, huyện T, tỉnh An Giang.
Bị đơn: Ông Võ Thành N, sinh năm 1988.
Địa chỉ: Số 544/25A, khóm Đ5, phường Đ, thành phố X, tỉnh An Giang.
(Bà X có đơn xin xét xử vắng mặt; ông N vắng mặt lần thứ 2 không có lý
do)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng ngày 25/5/2020 và tại biên bản không
tiến hành hòa giải được, nguyên đơn là bà Hồ Thị X trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà X và ông N do quen biết sau đó tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ ngày 20/8/2010. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do ông N có người phụ nữ khác bên ngoài, vợ chồng thường xuyên cãi vã, ông N cũng hay đánh đập bà X. Bà X và ông N đã ly thân từ tháng 11 năm 2019 đến nay, bà X nhận thấy vợ chồng sống với nhau không hạnh phúc mục đích hôn nhân không đạt được nên bà X yêu cầu được ly hôn với ông N.
Về quan hệ con chung: Bà X và ông N có 02 (hai) con chung tên Võ Thị S, sinh ngày 31/5/2010 và Võ Thành G, sinh ngày 21/12/2018, sau khi ly hôn bà X yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là Võ Thành G, bà X không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi cháu G; đối với cháu Võ Thị S hiện nay đang sống với ông bà nội, bà đồng ý để ông N nuôi cháu S, bà X không cấp dưỡng nuôi cháu S.
Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn Võ Thanh N không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà X và vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:
Bà X có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt lý do hiện nay đang đi làm ở Đồng Nai, điều kiện đi lại khó khăn nên xin được vắng mặt khi tòa xét xử. Ông N vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến: Theo bài phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại Phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1.1] Tranh chấp giữa bà Hồ Thị X là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết.
[1.2] Bà Hồ Thị X có đơn đề nghị xét xử vắng mặt do phải đi làm ăn xa đi lại khó khăn nên không về dự tòa được. Căn cứ khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bà X.
[1.3] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo qui định tại Điều 177 và Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự, đồng thời tiến hành thu thập chứng cứ để xác định tình trạng cư trú của ông Võ Thanh N và được Công an phường Đ, thành phố X cung cấp thông tin: “Ông Võ Thành N, sinh năm 1988 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 544/25A, khóm Đ5, phường Đ, thành phố X, tỉnh An Giang”. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông N.
Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà X và ông N do quen biết sau đó tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ ngày 20/8/2010. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do ông Nam có người phụ nữ khác bên ngoài, vợ chồng thường xuyên cãi vã, ông Nam cũng hay đánh đập bà X. Bà X và ông N đã ly thân từ tháng 11 năm 2019 đến nay, bà X nhận thấy vợ chồng sống với nhau không hạnh phúc mục đích hôn nhân không đạt được nên bà X yêu cầu được ly hôn với ông N.
Phía bị đơn được Tòa án nhiều lần tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi cư trú của ông N, có em của ông N là bà Võ Thị B ký nhận thay văn bản tố tụng và cam kết giao lại cho ông N. Tuy nhiên, ông N vẫn không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình qua yêu cầu ly hôn của bà X và không đến tham gia hòa giải. Như vậy, ông N đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của bị đơn được quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự và đồng nghĩa với việc ông không còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân của mình.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng động viên bà X và tạo thêm thời gian để vợ chồng bà X ông N có cơ hội hàn gắn tình cảm. Tuy nhiên, bà X vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn vì theo bà X trình bày hiện nay ông N đang sống với người phụ nữ khác và thời gian vợ chồng còn chung sống thì ông N cũng thường đánh đập bà, mặt khác từ khi vợ chồng ly thân từ năm 2019 đến nay bà đã về nhà cha mẹ ruột ở xã H sinh sống nhưng ông N cũng chưa lần nào đến gặp bà để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ đó, có thể nhận thấy tình cảm của bà X dành cho chồng không còn, tình trạng mâu thuẫn trong hôn nhân của ông bà đã trầm trọng. Xét thấy, mục đích hôn nhân giữa bà X và ông N không đạt được, nếu tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của bà X được ly hôn với ông N.
[2.2] Về con chung: Bà X và ông N có 02 (hai) con chung tên Võ Thị S, sinh ngày 31/5/2010 và Võ Thành G, sinh ngày 21/12/2018. Lời khai của bà X phù hợp với bản sao trích lục khai sinh số 211/TLKS-BS và số 211/TLKS-BS ngày 15/5/2020 do Ủy ban nhân phường Đ cấp ngày 15/5/2020.
Đối với cháu Võ Thị S, xét thấy, thời gian qua cháu S đang sống với ông bà nội, ông N cũng thường về thăm nom chăm sóc cháu S và cháu S cũng có nguyện vọng được sống với ba là ông Võ Thành N, bà X cũng đồng ý giao cháu S cho ông Nam nuôi dưỡng. Để ổn định cuộc sống cho cháu S, hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà X giao cháu S cho ông Võ Thành N tiếp tục nuôi dưỡng.
Đối với cháu Võ Thành G, sinh ngày 21/12/2018 do cháu G chưa đủ 36 tháng tuổi và hiện nay đang sống với mẹ nên bà X được tiếp tục nuôi dưỡng cháu G.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Xét thấy, người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, ông N không có ý kiến đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con và bà Xuyên cũng không yêu cầu ông Nam cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Bà X và gia đình phải tạo điều kiện thuận lợi cho ông N được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Võ Thành G. Việc nuôi con không cố định.
Ông N và gia đình phải tạo điều kiện thuận lợi cho bà X được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Võ Thị S. Việc nuôi con không cố định.
[2.4] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà X trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung. Do bị đơn ông N cũng không có ý kiến về việc phân chia tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này, các bên phát sinh tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.
Về án phí: Bà Hồ Thị X phải nộp án phí Hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều
177; Điều 179; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 238, Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị X. Bà Hồ X được ly hôn với ông Võ Thành N.
Về con chung:
+ Giao cháu Võ Thị S, sinh ngày 31/5/2010 cho ông Võ Thành N nuôi dưỡng. Bà X không phải cấp dưỡng nuôi cháu S.
Ông N và gia đình phải tạo điều kiện thuận lợi cho bà X được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Võ Thị S. Việc nuôi con không cố định.
+ Giao cháu Võ Thành G, sinh ngày 21/12/2018 cho bà Hồ Thị X nuôi dưỡng. Võ Thành N không phải cấp dưỡng nuôi cháu Bảo.
Bà X và gia đình phải tạo điều kiện thuận lợi cho ông N được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Võ Thành G. Việc nuôi con không cố định.
Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.
Về án phí: Bà Hồ Thị X phải chịu 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình. Do bà Thảo đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003119 ngày 08/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, bà Xuyên đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Hồ Thị X và ông Võ Thành N được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Các đương sự ; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
VKSND TPLX;
THADS TPLX;
UBND phường Bình Đức;
Lưu hồ sơ./.
Nguyễn Thị Đức Anh
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Các đương sự ; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
VKSND TPLX;
TAND tỉnh An Giang;
Chi cục THADS TPLX;
Lưu: hồ sơ, VP./.
Trần Phạm Xuân Khanh
Bản án số 103/2020/HNGĐ–ST ngày 20/08/2020 của TAND TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Số bản án: 103/2020/HNGĐ–ST
- Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 20/08/2020
- Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
- Tòa án xét xử: TAND TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: bà X xin ly hôn ông N