TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 102/2022/HSPT Ngày: 24-3-2022 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Trương Công Thi
Các thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Tào
Ông Nguyễn Tấn Long
Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Văn Phong, Thẩm tra viên Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên: Ông Lê Văn Thành, Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 43/2022/TLPT-HS ngày 26 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Phạm Xuân H về tội “Mua bán trái phép chất maDo có kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 73/2021/HSST ngày 28/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
Bị cáo có kháng cáo:
Phạm Xuân H - sinh năm 1996; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: tỉnh Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; con ông Phạm H (1971) và bà Trần Thị Xuân T (1971); Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/6/2021, vắng mặt
Người bào chữa: Luật sư Trần Văn S, Văn phòng luật sư S, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa - bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn hiển tại phiên tòa, nội dung vụ án được xác định như sau:
Từ cuối năm 2020, Phạm Xuân H quen biết và nhiều lần mua ma túy “đá” của Phạm Bá C để sử dụng, đến tháng 3/2021 thì H mua ma túy của C về phân lẻ để bán lại cho người khác. Mỗi lần mua, H sử dụng tài khoản Facebook có tên
“Ghi nhận cuộc sống” liên lạc với C để mua từ 10gam đếm 30gam ma túy “đá” Methamphetamine, C đồng ý bán với giá 5.000.000đ/01 hộp 10 (khoảng 10gam). Sau khi mua được ma túy, H mang về nhà tại tổ dân phố 12, N, thị xã N, Khánh Hòa để cất giấu và phân lẻ thành nhiêu bịch nhỏ hoặc các tép được bỏ trong đoạn ông hút. Khi Võ Viết T và nhiều người khác (chưa rõ lai lịch) liên lạc đến số điện thoại 034305087 hoặc tài khoản Zalo tên “Cảm ơn vì tất cả” của H hỏi mua thì H bán với giá từ 200.000đ đến 3.000.000đ (tùy theo nhu cầu người mua), H thường hẹn giao ma túy tại khu vực chỗ ở của mình. Với cách thức trên, ngày 19/6/2021, H mua của C 10gam ma túy “đá” Methamphetmine với giá 5.000.000đ về bán lại kiếm lời. Ngày 23/6/2021, H tiếp tục mua của C 30gam ma túy “đá” Methamphetamine với giá 15.000.000đ, do chưa đủ tiền nên H đã đưa trước cho C số tiền 12.000.000d, số tiền còn lại sẽ trả sau khi bán được ma túy, C đồng ý. Đến khoảng 16 giờ 00 phút ngày 24/6/2021, T dùng số điện thoại 0966332446 gọi vào số điện thoại 0343054087 của H hỏi mua 01 tép ma túy “đá” Methamphteamine với giá 200.000đ, H đồng ý bán và hẹn giao ma túy tại nhà của mình thuộc tổ dân phô 12, phường N, thị xã N. Tại đây, khi H vừa bán cho T 01 tép ma túy “đá” Methamphetamine (kí hiệu A) thì bị tổ công tác của Công an thị xã N, tỉnh Khánh Hòa phát hiện bắt quả tang thu giữ 01 tép ma túy nếu trên cùng số tiền 200.000đ. Cùng ngày, tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Xuân H tại tổ dân phố 12, N, thị xã N, Khánh Hòa, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã N phát hiện thu giữ: 02 gói nhựa màu trắng trong, kích thước bằng nhau, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (kí hiệu B); 09 ống nhựa màu trắng trong, cùng kích thước, bên trong chưa tinh thể màu trắng (kí hiệu C); 10 tờ tiền polymer mệnh giá 500.000đ/tờ; 01 tờ tiền polymer mệnh giá lpo.ooođ/tờ. Ngoài ra còn thu giữ của H 02 chiếc điện thoại di động, 01 cân tiểu ly cùng nhiều vật dụng khác phục vụ cho việc bán ma túy. Quá trình điều tra, Võ Viết T khai nhận đã nhiều lần mua ma túy “đá” Methamphetamine của H để sử dụng.
Tại Kết luận giám định số 246/GĐ-GT/2021 ngày 01/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa đã kết luận: Tinh thể màu trắng trong mẫu kí hiệu A gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,0534g, là (loại)Methamphetamine; Tinh thể màu trắng trong mẫu kí hiệu B gửi giám định là ma túy, khối lượng 32,2165g, ỉà (loại) Methamphetamine; Tirih thể màu trắng trong mẫu kí hiệu c gửi giám định là ma túy, khối lượng l,2733g, là (loại) Méthamphetamine.
Từ những nội dung đã được xác định nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 73/2021/HSST ngày 28/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:
Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm Xuân H.
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Xử phạt bị cáo Phạm Xuân H 16 (mười sáu) năm tù về tội “MuaThời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 24/6/2021.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Phan Xuân H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giữ nguyên kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc phẩm, Kiểm sát viên phát biểu như sau:
Về tố tụng, Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng dã thực hiện và tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, tính chất hành vi phạm tội và một số tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên mức hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh, nhận thức và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng, giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã được xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Xem xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Về nội dung tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Tại phiên phúc thẩm bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã xác định, từ cuối năm 2020, Phạm Xuân H quen biết và nhiều lần mua ma túy “đá” của Phạm Bá C để sử dụng, đến tháng 3/2021 thì H mua ma túy của C về phân lẻ để bán lại cho người khác. Mỗi lần mua, H mua từ 10gam đếm 30gam ma túy “đá” Methamphetamine, với giá 5.000.000đ/01 hộp khoảng 10gam. Sau khi mua được ma túy, H mang về nhà tại tổ dân phố 12, N, thị xã N, Khánh Hòa để cất giấu và phân lẻ thành nhiều gói nhỏ hoặc phân ra bỏ các té trong đoạn ông hút, sau đó bán cho Võ Viết T và nhiều người khác (chưa rõ lai lịch) với giá từ 200.000đ đến 3.000.000đ (tùy theo nhu cầu người mua), H thường hẹn giao ma túy tại khu vực chỗ ở của mình.
Với cách thức trên, ngày 19/6/2021, sau khi mua của C 10gam ma túy “đá” Methamphetmine với giá 5.000.000đ, ngày 23/6/2021, H tiếp tục mua của C 30gam ma túy “đá” Methamphetamine với giá 15.000.000đ, do chưa đủ tiền nên H đã đưa trước cho C số tiền 12.000.000d, số tiền còn lại sẽ trả sau khi bán được ma túy. Đến khoảng 16 giờ 00 phút ngày 24/6/2021, H đang bán ma túy cho T tại nhà của mình thuộc tổ dân phô 12, phường N, thị xã N. thì bị tổ công tác của Công an thị xã N, tỉnh Khánh Hòa phát hiện bắt quả tang thu giữ 01 tép ma túy (kí hiệu A)cùng số tiền 200.000đ. Cùng ngày, Cơ quan điều tra Công an thị xã N tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Xuân H tại tổ dân phố 12, N, thị xã N, Khánh Hòa, thì phát hiện thu giữ: 02 gói nhựa màu trắng trong, kích thước bằng nhau, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (kí hiệu B); 09 ống nhựa màu trắng trong, cùng kích thước, bên trong chưa tinh thể màu trắng (kí hiệu C); 10 tờ tiền polymer mệnh giá 500.000đ/tờ; 01 tờ tiền polymer mệnh giá 1oo.ooođ/tờ. Ngoài ra còn thu giữ
của H 02 chiếc điện thoại di động, 01 cân tiểu ly cùng nhiều vật dụng khác phục vụ cho việc bán ma túy.
Quá trình điều tra, Võ Viết T cũng đã khai nhận nhiều lần mua ma túy “đá” Methamphetamine của H để sử dụng.
Tại Kết luận giám định số 246/GĐ-GT/2021 ngày 01/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa đã kết luận: Tinh thể màu trắng trong mẫu kí hiệu A, khối lượng 0,0534g, B, khối lượng 32,2165g, C khối lượng l,2733g, đều là ma túy loại Méthamphetamine.
Tại Bản án sơ thẩm đã áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phạm Xuân H 16 năm tù về tội“Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội và tương xứng vói tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo.
[2]. Xem xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Xuân H xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo nhiều lần mua bán ma túy với tổng khối lượng tương đối lớn, đã phạm vào khoảng 3, Điều 251 Bộ luật hình sự, có mức hình phạt từ 15 đến 20 năm tù, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, Với khối lượng và số lần mua bán trái phép chất ma túy nêu trên, tại Bản án sơ thẩm đã áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 16 năm tù là đã xem xét đúng tính chất, tương xứng với hành vi phạm tội. Tại phiên tòa phúc thẩm, không có tình tiết gì mới do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên quyết định về hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với bị cáo.
[3]. Đối với các nội dung khác không kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
[4]. Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1, Điều 355 của Bộ luật tố tụng hình sự.
1/. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Xuân H; giữ nguyên quyết định về hình phạt tại Bản án sơ thẩm đối với bị cáo.
2/. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
- Xử phạt bị cáo Phạm Xuân H 16 (mười sáu) năm tù, về tội “Mua bán tráiThời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/6/2021.
3/. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4/. Về án phí phúc thẩm: Áp dụng điểm b, khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Phạm Xuân H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
CÁC THẨM PHÁN
(Đã ký)
Nguyễn Tấn Long Nguyễn Văn Tào | THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Trương Công Thi |
Bản án số 102/2022/HSPT ngày 24/03/2022 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Số bản án: 102/2022/HSPT
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Ngày ban hành: 24/03/2022
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Xuân H; giữ nguyên quyết định về hình phạt tại Bản án sơ thẩm đối với bị cáo.